Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

Tiếp thị xanh: Phong trào hay xu thế tất yếu


Việc xem tiếp thị xanh là phong trào hay xu thế tất yếu phụ thuộc vào nhận thức, khả năng và cách thực hiện của mỗi doanh nghiệp.
Có rất nhiều định nghĩa về tiếp thị xanh, nhưng tựu trung lại, có thể nói, tiếp thị xanh liên quan đến quá trình kinh doanh sản phẩm, dịch vụ dựa trên lợi ích môi trường của chính sản phẩm hay dịch vụ đó. Tức là, sản phẩm hay dịch vụ đó thân thiện với môi trường hoặc được sản xuất, đóng gói theo cách thân thiện với môi trường.
Sự ra đời của phương pháp tiếp thị này xuất phát từ nhu cầu của con người, khi phải đối mặt với thực tế là chỉ có một trái đất, một thiên nhiên duy nhất để sống nhưng chính con người lại đang tàn phá môi trường sống của mình mỗi ngày, bằng nhiều cách khác nhau, nhằm phục vụ cho nhu cầu của bản thân. Điều này không chỉ tác động đến hiện tại mà còn ảnh hưởng lâu dài đến những thế hệ sau.
Tiếp thị xanh là cách để doanh nghiệp thể hiện sự hưởng ứng nhu cầu bảo vệ môi trường sống của người tiêu dùng thông minh, những người nhận thức được vai trò của mình trong việc lựa chọn sản phẩm và dịch vụ góp phần bảo vệ môi trường. Tuân thủ những tiêu chuẩn xanh, doanh nghiệp sẽ có được sự đồng thuận và ủng hộ từ cổ đông, nhân viên cho đến các tổ chức, cơ quan, chính phủ và cuối cùng là được khách hàng yêu thích, ưu tiên chọn lựa. Đến lượt mình, hoạt động tiếp thị xanh lại góp phần nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, gia tăng số người tiêu dùng thông minh.
Xét ở vĩ mô, bảo vệ môi trường, tăng trưởng kinh doanh và đạt hiệu quả xã hội, bao giờ cũng mâu thuẫn với nhau. Đối với doanh nghiệp cũng vậy, sức ép tăng trưởng hoặc hiệu quả kinh doanh có thể lấn át việc bảo vệ môi trường, trừ phi có sự can thiệp của cơ quan chức năng hoặc người tiêu dùng. Mỗi sản phẩm người tiêu dùng lựa chọn có thể được xem là một phiếu bầu cho doanh nghiệp, càng nhiều phiếu bầu càng tốt cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Vấn đề là người tiêu dùng có nhận thức và sử dụng quyền quyết định của mình hữu hiệu hay không.
Trường hợp một tập đoàn sản xuất nước giải khát lớn gặp phải tại Ấn Độ có thể coi là ví dụ điển hình. Năm 2000, khi họ khánh thành nhà máy tại một tỉnh của Ấn Độ, người dân địa phương bắt đầu phản ánh tình trạng thiếu hụt nước ngầm và quy trách nhiệm cho nhà máy mới. Tranh chấp pháp lý giữa dân địa phương và tập đoàn nọ cứ kéo dài và vào năm 2004, nhà máy bị buộc phải đóng cửa vĩnh viễn.

Cách thực hiện

Trước hết, doanh nghiệp nên xem tiếp thị xanh không phải là một phong trào mà là sự cam kết với bản thân, cổ đông, nhân viên, cộng đồng và người tiêu dùng. Khi lấy lợi ích người tiêu dùng làm trọng tâm, cần cân nhắc kỹ 3 yếu tố.
Thành thật: Chỉ nói về những gì đã - đang làm và chỉ làm những gì đã nói. Nếu tuyên bố quá sự thật, một khi bị phát hiện, hậu quả còn tệ hại hơn khi không hứa gì cả. BP là một ví dụ. Với tuyên bố “năng lượng xanh bên ngoài dầu mỏ”, BP đã giành được sự yêu quý của người tiêu dùng khắp thế giới. Nhưng với sự kiện tràn dầu ở vịnh Mexico do BP bỏ qua một số yếu tố về an toàn khai thác, CEO của Công ty lại đi du lịch trong lúc cuộc sống hàng vạn con người và môi trường đang bị đe dọa nghiêm trọng, thì hành động phản đối BP lên đến cao trào là điều dễ hiểu.
Sự thành thật cần thể hiện thành chính sách, lộ trình thực hiện, tiêu chí đo lường hay các chứng nhận môi trường.
Hướng dẫn, thông báo cặn kẽ: Điều quan trọng không phải là cho khách hàng biết bạn đã làm gì mà là vì sao việc làm đó quan trọng, có lợi gì cho họ. Chương trình tiếp thị xanh sẽ không đạt kết quả nếu đại bộ phận khách hàng đặt câu hỏi “Làm như vậy để làm gì?”. Juice Beauty là thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng, được Bộ Nông nghiệp Mỹ công nhận nguyên liệu thực vật tạo thành phẩm không có chất độc hại. Nhưng Juice Beauty còn cho khách hàng biết da có thể thẩm thấu trên 60% sản phẩm của Hãng và sẽ đẹp hơn mà không gây hại. Nếu không nhấn mạnh đặc tính này, những yếu tố phụ như 80% sản phẩm được sản xuất từ năng lượng mặt trời, bao bì hoàn toàn tái chế, mực in bao bì làm từ đậu nành... không có nhiều ý nghĩa đối với khách hàng.
Để khách hàng cùng tham gia: Doanh nghiệp cần cụ thể những cam kết của mình thành hành động đơn giản để khách hàng có thể tham gia một cách tích cực. TP.HCM đang có chương trình kêu gọi “Nói không với túi nylon”. Vật dụng này đã đi vào cuộc sống của người dân từ hàng chục năm nay nên việc nói “không” ngay lập tức là không đơn giản. Do đó cần có thông điệp rõ hơn như “1.000 năm là thời gian phân hủy một túi nylon. Con cháu ta sẽ sống chung với những chiếc túi do chúng ta thải ra hôm nay”. Doanh nghiệp có thể đặt biển cảnh báo ở nơi để túi nylon với nội dung “Hãy nghĩ kỹ! Con cháu chúng ta sẽ sống chung với thứ rác này trong 1.000 năm nữa”, các túi làm từ vải không dệt hay túi sử dụng nhiều lần được đặt cạnh đó kèm thông báo “Lựa chọn đúng!”. Người tiêu dùng sẽ tự quyết định.
Tại Việt Nam, tiếp thị xanh mới phát triển ở giai đoạn đầu, đa phần các hoạt động “vì môi trường” của doanh nghiệp mang tính quảng bá, thu hút chú ý của công chúng và giới truyền thông hơn là đi vào bản chất của vấn đề là sự cam kết và hành động cụ thể nhằm bảo vệ môi trường. Điều này cũng dễ hiểu bởi các phương thức sản xuất xanh sẽ tạo thêm việc và chi phí, cũng như mất nhiều thời gian xây dựng nhận thức trong doanh nghiệp.

Để trở thành chiến lược lâu dài

Muốn phát triển tiếp thị xanh thành chiến lược lâu dài, doanh nghiệp không nên hy vọng đó là một cách để tăng doanh số và thị phần. Nhiều cuộc thăm dò nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu cho thấy, người tiêu dùng sẵn sàng lựa chọn sản phẩm có tính thân thiện với môi trường hơn so với những sản phẩm khác.
Khi người tiêu dùng buộc phải đánh đổi giữa tính năng sản phẩm, chất lượng phục vụ với sự thân thiện môi trường, kẻ thua cuộc thường là môi trường. Doanh nghiệp cần nhận thức rằng, người tiêu dùng không có khả năng thỏa hiệp lợi ích lý tính truyền thống của sản phẩm như sự tiện lợi, giá cả, hiệu quả với tính năng “xanh”, nghĩa là phải thỏa mãn nhu cầu của họ trước khi bàn đến chuyện “xanh”. Mất cân đối giữa 2 yếu tố này xem như doanh nghiệp chỉ chạy theo phong trào.
Sản phẩm xanh đầu tiên của Philips là bóng đèn tiết kiệm điện EarthLight có giá 15 USD, trong khi bóng đèn sợi đốt chỉ 0,75 USD và EarthLight đã chìm vào quên lãng. Đến khi Philips tung ra Marathon, nhấn mạnh đặc tính “siêu tuổi thọ” và tiết kiệm 26 USD trong 5 năm sử dụng, rồi nhấn mạnh thêm là Marathon được chứng nhận Energy Star của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, Marathon đã thống lĩnh thị trường.
Không có chiến lược tiếp thị xanh nào chuẩn cho mọi doanh nghiệp. Tùy tình hình thực tế và đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược “xanh âm thầm” (giảm chất thải độc hại, giảm sử dụng tài nguyên không thể tái tạo) hoặc “xanh phòng thủ” (chủ động đáp ứng yêu cầu của các tổ chức bảo vệ môi trường để sản phẩm được chấp nhận ở những thị trường trọng điểm). Hoặc chiến lược “xanh cực điểm” với việc tiên phong thực hiện các tiêu chí bảo vệ sức khỏe và môi trường, vượt trên cả yêu cầu của đối thủ hay các tổ chức bảo vệ môi trường. Tương ứng với mỗi chiến lược luôn là sự chuẩn bị từ cơ sở vật chất đến tinh thần cho nhân viên, giúp doanh nghiệp có thể tiến gần hơn đến lợi ích của tiếp thị xanh.

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Marketing xanh thời ô nhiễm

Thế kỷ 21, khi nhân loại đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ môi trường, thay đổi khí hậu, dịch bệnh…thì marketing xanh được xem là một hiện tượng mới ngược với marketing truyền thống, dần phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng vô song tới hoạt động thương mại quốc tế.
marketing xanh thời ô nhiễm

Marketing xanh (Green Marketing)

Marketing môi trường – Marketing sinh thái là những thuật ngữ tương đồng dùng để chỉ hoạt động marketing các loại sản phẩm được cho là tốt cho môi trường. Marketing xanh bao gồm hàng loạt các hoạt động doanh nghiệp từ thay đổi thiết kết sản phẩm, quy trình sản xuất, bao bì đóng gói, kể cả hoạt động quảng cáo… nhằm đáp ứng “nhu cầu xanh” của người tiêu dùng và xã hội, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các đối thủ. Trong thế giới kinh doanh thế kỷ XXI, khi nhân loại đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ môi trường, thay đổi khí hậu, dịch bệnh… thì marketing xanh đang là một chiến lược được nhiều hãng vận dụng hiệu quả.

Chữ xanh từ đâu ra?

Hãy cùng quay trở lại những năm 90 của thế kỷ trước, thời điểm các quốc gia, sau những năm vật lộn với tăng trưởng kinh tế đã dần ý thức được tầm quan trọng của sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Những “phong trào xanh” bắt đầu nổi lên và dần trở thành xu hướng toàn cầu, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của những khái niệm mới như thực phẩm xanh, đồ gia dụng xanh, công xưởng xanh… đã thúc đẩy hoạt động “tiêu dùng xanh” – tiêu dùng những sản phẩm không có hại cho môi trường – gia tăng mạnh mẽ. Nhiều học giả đã dự báo rằng thế kỷ 21 này sẽ là “thế kỷ xanh” và nhân loại đang cùng nhau bước vào “thời đại xanh”.
Trong bối cảnh đó, marketing xanh, được xem là một hiện tượng mới ngược với marketing truyền thống, dần phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng vô song tới hoạt động thương mại quốc tế. Nhiều chuyên gia cho rằng, sự gia tăng của hoạt động marketing xanh bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính sau: (1) “phát triển bền vững” trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân loại, chính phủ các nước xây dựng hệ thống luật pháp điều chỉnh về môi trường với những quy định nghiêm ngặt; (2) sự “thức tỉnh lương tâm bảo vệ môi trường” thúc đẩy phong trào “tiêu dùng xanh” phát triển; (3) sự tồn tại của hệ thống “hàng rào kỹ thuật” trong thương mại quốc tế dưới cái ô “môi trường xanh”.

Quy trình cơ bản

Có thể chia marketing xanh làm hai công đoạn chính: chuẩn bị và đưa sản phẩm ra thị trường.
Công đoạn chuẩn bị bao gồm các hoạt động thu thập thông tin dữ liệu, định vị và phát triển “sản phẩm xanh”. Đây là một quá trình phức tạp nhưng đóng vai trò tiên quyết cho sự thành công của chiến lược marketing xanh, gồm ba khâu chính: thiết kế, sản xuất và đóng gói sản phẩm xanh. Trong khâu thiết kế, doanh nghiệp cần chú ý tới nguyên tắc 3R (Reduction – giảm thiểu vật liệu và nhiên liệu đầu vào, Reuse – tái sử dụng và Recycling – tái chế). Trong khâu sản xuất, doanh nghiệp cần đảm bảo sử dụng công nghệ và kỹ thuật sạch, không ô nhiễm, sản phẩm sản xuất ra không có hại cho môi trường và sức khỏe con người. Còn với khâu đóng gói, cần sử dụng loại bao bì không gây độc hại và có khả năng tái chế.
Công đoạn đưa sản phẩm ra thị trường bao gồm một loạt các hoạt động sau: ấn định “mức giá xanh”, thiết lập các “kênh phân phối xanh” và tiến hành các hoạt động yểm trợ marketing xanh. Theo một số chuyên gia, yểm trợ khuyến mãi là các hoạt động đóng vai trò quan trọng cho thành công của marketing xanh trong công đoạn này, các marketer cần phải tạo dựng được “hình ảnh xanh” cả về sản phẩm và doanh nghiệp.

Cái bẫy marketing thiển cận

Như phân tích trên đây, marketing xanh phải đảm bảo hai mục tiêu: cải thiện chất lượng môi trường và thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Trên thực tế, việc quá tập trung vào yếu tố môi trường mà lãng quên mục tiêu “thỏa mãn nhu cầu khách hàng” chính là nguyên nhân thất bại của nhiều chiến lược marketing xanh.

Người tiêu dùng là trung tâm

Những nghiên cứu marketing hiện đại đã chỉ ra rằng người tiêu dùng, trước hết là cư dân tại các nước phát triển đang ngày càng có ý thức hơn về các vấn đề môi trường. Thỏa mãn “nhu cầu xanh” của người tiêu dùng và của xã hội là mục tiêu lớn nhất mà marketing xanh hướng tới. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất với các marketer là làm sao kết hợp được giữa nhu cầu “bảo vệ môi trường” với những nhu cầu cơ bản khác của người tiêu dùng như tương quan chi phí – hiệu quả, an toàn khi sử dụng, hiệu suất, giá trị biểu tượng và tiện nghi. Để thấy được tầm quan trọng của sự kết hợp này, có thể sử dụng một trong những ví dụ kinh điển của marketing xanh – trường hợp bóng đèn huỳnh quang Philips.
Năm 1994, Philips tung ra thị trường EarthLight loại bóng đèn huỳnh quang CFL sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm thay thế các loại bóng truyền thống. Tuy nhiên, hình dáng “cồng kềnh” của EarthLight khiến nó không thể thích nghi với các loại đèn thông thường, khiến doanh số bán của nó trên các thị trường nhanh chóng sụt giảm. Sau khi thu thập thông tin, nghiên cứu phản hồi của người tiêu dùng, năm 2000 Philips lại tung ra sản phẩm với tên gọi mới Marathon. Nhà sản xuất đã sử dụng kiểu dáng thiết kế mới khiến bóng Marathon có khả năng thích nghi cao với các loại đèn truyền thống, đồng thời cam kết rằng sản phẩm này tiết kiệm năng lượng hơn 20USD so với loại bóng truyền thống. Bên cạnh đó, Marathon đã được dán nhãn Energy Star – chứng nhận của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).
Nghiên cứu hoạt động marketing trong thời gian qua, nhiều chuyên gia cho rằng sự thành công của các chiến lược xanh liên quan rất nhiều tới những thông điệp marketing mang tính giáo dục, những slogan có khả năng kết nối được giữa đặc tính của sản phẩm xanh và những giá trị mà người tiêu dùng mong muốn. Các chương trình marketing xanh được xem là thành công khi tác động được tới hiểu biết của khách hàng khiến họ nhận ra lợi ích của các sản phẩm xanh.

Marketing xanh tại Việt Nam

Giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường tương đối nặng nề và hơn lúc nào hết vấn đề trách nhiệm xã hội của các nhà sản xuất, các hãng kinh doanh đang được bàn luận rất nhiều trên hệ thống truyền thông trong nước. Một điều dễ nhận thấy là công tác quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam càng ngày càng trở nên chặt chẽ và hoàn thiện hơn, kể cả trên phương diện hệ thống luật pháp, các cơ quan đặc trách về môi trường và những biện pháp nghiêm khắc nhằm vào Công ty Vedan vừa rồi dường như chỉ là sự mở màn. Có thể xem đây là hồi chuông cảnh báo nhằm vào những marketer, manager “truyền thống” nhưng mặt khác cũng là lúc cho các ý tưởng sáng tạo tung tuyệt chiêu. Một chiến lược marketing xanh hợp lý vào thời điểm này, khi cả xã hội, chính phủ, truyền thông và người dân đang sôi sục với vấn đề môi sinh, sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp cải thiện hình ảnh mà còn tạo ra nhiều lợi ích khác.
Như đã nói ở trên, điều cốt lõi của mọi chiến lược marketing xanh là đặt người tiêu dùng ở vị trí trung tâm, thức tỉnh và thỏa mãn nhu cầu xanh của họ. Thế nhưng trong thời gian qua, thái độ của các doanh nghiệp trong nước với chủ đề xanh còn mang tính đối phó, với quan niệm rằng “môi sinh” là trách nhiệm và gánh nặng của doanh nghiệp.
Một trong những chiến lược xanh mang tính chủ động trong thời gian qua, được truyền thông đề cập nhiều là trường hợp Tập đoàn Siêu thị Metro quyết định bán túi cói cho khách hàng thay vì cung cấp miễn phí túi nilon cho họ như trước. Nhiều chuyên gia cho đây là một quyết định “chủ động đón đầu” của doanh nghiệp (xu hướng cấm sử dụng túi nilon đang trở nên phổ biến ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới), hướng tới đánh thức nhu cầu xanh của người tiêu dùng và cải thiện hình ảnh doanh nghiệp với xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng phương án của Metro, bán túi thay vì cung cấp miễn phí bao nilon, có thể sẽ gây ra phản ứng tiêu cực của khách hàng do lợi ích trước mắt của họ bị ảnh hưởng. Phải chăng đã đến lúc hệ thống cần có những điều chỉnh nhằm hoàn thiện chiến lược xanh, cũng như để tránh rơi vào bẫy green marketing myopia?

Lịch sử của Marketing Xanh - History of Green Marketing

Những năm 1960 được coi như mốc đầu tiên của phong trào xanh với cuốn sách “Silent Spring” của Rachel Carson hay “Unsafe At Any Speed” của Ralph Naders.  “Silent Spring” là cuốn sách môi trường tiêu biểu đầu tiên nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của tờ The New York Times. Cùng với tranh luận của Carson về tác hại của thuốc trừ sâu đối với cả sinh vật lẫn con người, nghiên cứu khoa học sau đó đã dẫn đến lệnh cấm sử dụng chất DDT tại Mỹ vào năm 1972.
1970: Thông qua Clean Air Act – bộ luật về vấn đề ô nhiễm không khí. Ngày trái đất đầu tiên.
1977: GE chấm dứt xả thải chất PCB (polychlorinated biphenyl) xuống sông Hudson
                                   1986: Thảm họa ở nhà máy điện hạt nhân Chernobyl
1989: Vụ tràn 11 triệu gallon dầu của Exxon ở Alaska

1990: Apple giới thiệu chính sách môi trường đầu tiên

 1992: Hội nghị Trái đất tại Brazil

1999: Ra mắt xe Insight của Honda và Prius của Toyota

2002: Giới thiệu nhãn chứng nhận hữu cơ của USDA

2006: Cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore giới thiệu bộ phim “The inconvinient truth”

2006: Nhiệt độ trái đất đạt mức cao nhất trong 12,000 năm

2009: Wal-mart xây dựng và phát triển hệ thống dãn nhãn bền vững

Theo The Fast Company

Marketing "Xanh"


ResizedImage220165-green-tag.jpg

Khi bắt đầu chiến lược Marketing mới, chúng tôi không gọi những gì mình làm là “thương hiệu bền vững” - chúng tôi tiến hành marketing “môi trường” hay đơn giản là marketing “xanh”.

Sự thay đổi này phản ánh một sự thật rằng những mục tiêu mang tính chất nhân khẩu học cho marketing xanh không phải là “những người phụ nữ có học, tuổi 30-49, có con" nữa, mà là nhiều phân đoạn thị thường có thể trên nền tảng người tiêu dùng năng động, giờ đây đã chiếm tới 66% dân số trưởng thành ở Mỹ. Hai mươi năm trước, nhiều quảng cáo xanh thường có đặc điểm mang hình hoa cúc, trẻ em hoặc hình ảnh của Trái đất nhìn từ không gian. May mắn thay, những quảng cáo đó có tất cả nhưng giờ đã không còn.
Hãy coi nhóm những sản phẩm làm sạch là một ví dụ; phương pháp quảng cáo bong bóng đã trở thành nhàm chán. Với sự kết hợp của những thiết kế trọn gói mang tính nghệ thuật, mùi hương lâu dài, chứng chỉ xanh, họ nỗ lực để thuyết phục người tiêu dùng khó tính rằng nước rửa bát của họ không phải là loại giống sản phẩm gốc Palmolive.
Ảnh: greenmarketing.ro
Trong khi nhà marketing quen với việc đưa tất cả những “khách hàng xanh” lại với nhau trong một nhóm không thể phân biệt được, giờ họ lại tập trung vào việc đa dạng hóa từ nhiều mảng người mua có tư tưởng ủng hộ sinh thái. 

Nhưng quay trở lại những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ 20, những thương hiệu xanh thực sự mà nói mới chỉ là thiểu số. Một sản phẩm tạo ra được cái mới nếu nó chỉ có một đặc tính xanh. Tiếp tục với những sản phẩm giặt là và làm sách như trường hợp trong luận điểm này, sản phẩm Downy chứa chất làm mềm sợi vải của Procter & Gamble’s đã trở thành tiêu đề quảng cáo. 

Rất nhiều sản phẩm khác được chào bán với tiêu đề thân thiện với môi trường đơn giản là đã nắm bắt được với xu hướng “xanh lên” trong mắt người tiêu dùng – và các chai nước tẩy được làm từ các hàm chất tái chế và thành phần chất bên trong được đóng mác “có thể làm phân hủy các chất bẩn”.
Người tiêu dùng ngày nay khó tính hơn. Với những người làm marketing xanh, từng bôi nhọ hình ảnh của họ với tất cả loại máy làm sạch xanh, thì những phương thức quản cáo ngày nay thường phải nói đến một hoặc nhiều nhãn sinh thái trong số 299 các nhãn sinh thái được đưa ra bởi những tổ chức trung gian có uy tín, thường là các tổ chức phi chính phủ, các nhóm hoạt động môi trường, các nhà bán lẻ và các cơ quan chính phủ- và thậm chí là “tự công nhận” với điều kiện đáp ứng được “sự minh bạch”, một chủ đề nổi cộm khác. 

Tại Monterey, ví dụ, nhà quản lý thương hiệu Clorox đã tuyên bố về sự công nhận công ty ông của Tổ chức bảo vệ môi trường của Mỹ với chương trình dán nhãn môi trường cũng như sự công nhận của Sierra Club. Đối thủ cạnh tranh của ông từ S.C. Johnson thì đưa địa chỉ trang web của công ty nơi khách hàng có thể tìm thấy danh sách những thành phần của các thương hiệu chính của họ.
Tuy nhiên, các nhãn hiệu sản phẩm và danh sách các thành phần đơn giản không còn là đủ nữa. Trong khi marketing xanh đã vượt lên khỏi những thương hiệu hướng tới tiêu chí “xanh” cùng lúc với những công cụ xây dựng mối quan hệ của các phương tiện truyền thông xã hội cho phép các nhà marketing có thể tận dụng được mỏ vàng những khách hàng ủng hộ sản phẩm xanh dành cho mảng thị trường nghiên cứu.

Seventh Generation, công ty khởi nguồn cho những sản phẩm làm sạch có một trang blog tên là “Inspired Protoganist”  và một mạng xã hội là “Seventh Generation Nation” tại trang web của công ty này với hàng nghìn thành viên, giúp họ có được những ý kiến đánh giá và những đề xuất cho những ý tưởng sản phẩm mới. Công ty này cũng có một trang trên Facebook hoàn toàn với rất nhiều lời nhận xét từ nhiều trong số hơn 6000 “người hâm mộ” mạng xã hội này và một trang trên Twitter với hơn 2000 người sử dụng. Điều này không hề tồi với một sản phẩm xà phòng.
Trong khi các sản phẩm làm sạch xanh tập trung vào ảnh hưởng của bụi đối với những kệ hàng thực phẩm cho sức khỏe, những thương hiệu bền vững nổi tiếng đang nhìn thấy có cơ hội trong hướng ngược lại. Trong nhóm những sản phẩm làm sạch, khó mà có sản phẩm nào nổi trội hơn dòng sản phẩm GreenWorks của Clorox. Dòng sản phẩm này của Clorox đang phát triển mạnh mẽ bởi thương hiệu nổi tiếng của nó cũng như bởi những thành phần của sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên đặc trưng cho nhiều thương hiệu sản phẩm xanh khác được bày bán. 

Có mặt tại Monterey, Clorox đã công bố doanh thu và thị phần tăng bất chấp suy thoái và tuyên bố một rừng các sản phẩm cho dù trong bối cảnh suy thoái và tuyên bố rằng GreenWorks giờ đây chiếm 45% nhóm các sản phẩm làm sạch có xuất xứ từ thiên nhiên, phát triển mạnh mẽ hơn cả dòng sản phẩm của Seventh Generation, công ty từng dẫn đầu trong lĩnh vực này 20 năm trước.
(Jacquelyn Ottman)

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

TPHCM kéo dài Chiến dịch tiêu dùng xanh

Chiến dịch tiêu dùng xanh lần 2 tại TPHCM sẽ diễn ra gần một tháng, từ ngày 6/6 đến 3/7/2011, thay vì một tuần như ở lần thứ nhất. Hoạt động nhằm khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm của những doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.

Chương trình do Sở Công Thương TPHCM phối hợp với Sài Gòn Co.op và báo Sài Gòn Giải phóng tổ chức, nhằm khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm của những doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.

Năm nay, chiến dịch đã thu hút khoảng trên 7.000 tình nguyện viên đến từ ĐH Kinh tế, ĐH Ngoại thương, ĐH Khoa học xã hội - Nhân văn... Ban tổ chức cũng có những chương trình hoạt náo nhằm thu hút sự chú ý và ủng hộ của người dân thành phố với xu hướng tiêu dùng xanh: đạp xe diễu hành, mua sắm xanh cùng các đại sứ thiện chí, tổ chức lễ phát động chiến dịch Tiêu dùng xanh tại Nhà Văn Hóa Thanh niên…
Ngoài những hoạt động như chia sẻ thông tin về sản phẩm xanh, các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, kêu gọi giới trẻ hãy thực hiện tiêu dùng xanh, bảo vệ môi trường sống bằng cách chọn sử dụng sản phẩm của các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, nhiều hoạt động thiết thực khác cũng đã được các tình nguyện viên và đại sứ thiện chí chiến dịch thực hiện.

Cụ thể, các tình nguyện viên tổ chức các hoạt động như: đi xe đạp truyền thông, tổ chức ngày hội khu phố xanh, chương trình mua sắm sản phẩm xanh với các đại sứ; ngày hội đổi đồ… nhằm tuyên truyền, vận động cộng đồng cùng tham gia hưởng ứng chủ trương tiêu dùng sản phẩm xanh, cùng chung tay giảm thiểu chất thải phát sinh trong cộng đồng.
Giảm giá 1.000 mặt hàng
Ban tổ chức cũng đã thực hiện chương trình hỗ trợ giảm giá sản phẩm xanh tại hệ thống siêu thị, nhất là tại hệ thống Cop.opMart; phát hành coupon thực hiện kích cầu tiêu dùng xanh… Tất cả đều đã và đang hướng đến một mục đích chung là cổ xúy cho lối sống xanh, thân thiện với môi trường.
6 doanh nghiệp gồm Vinamilk, Colgate, Friesland Campina, P&G, Miliket Colusa và Unilever sẽ tham gia chương trình “tháng tiêu dùng xanh” từ ngày 6/6 - 3/7 tại hệ thống siêu thị Co.opMart.
Theo đó, có khoảng 1.000 mặt hàng của 6 doanh nghiệp trên được bán với mức giá giảm thấp nhất là 5% và cao nhất lên đến 50%. Co.opMart có một số hình thức ưu đãi giảm giá cho khách hàng dùng túi thân thiện với môi trường thay cho túi nilon khi đến mua sắm.
Được biết, năm 2010, chiến dịch tiêu dùng xanh lần 1 đã thu hút sự tham gia tình nguyện của hơn 3.000 đoàn viên, sinh viên. Chương trình không chỉ giúp thay đổi nhận thức của người dân thành phố trong hoạt động bảo vệ môi trường mà còn giúp tăng 30 - 40% mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp xanh so với ngày thường.
Công Trí

Kỷ nguyên tiêu dùng xanh - The green consumption era

Những thay đổi trong cách tiêu dùng là dấu hiệu cho thấy một kỷ nguyên “tiêu dùng xanh” đang tới gần.

Trong một cửa hàng thân thiện với môi trường ở Xơ-un (Hàn Quốc) với hơn 2.500 mặt hàng thực phẩm, đồ gia dụng an toàn cho sức khỏe, người mua hàng đang đặt ra hàng chục câu hỏi chỉ để chọn ra một sản phẩm. Tại khu vực bán thịt với nhiều tảng thịt được đóng dấu xác nhận không sử dụng thuốc kháng sinh, khách hàng đang hỏi về sự khác nhau giữa loại thịt này với loại thịt bình thường. Thậm chí họ còn hỏi xem nó an toàn thế nào, làm thế nào để phân biệt được các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Rồi khách hàng hỏi cả về hệ thống theo dõi quy trình sản xuất và các chứng nhận của Cơ quan quản lý Dược phẩm-Thực phẩm Hàn Quốc. Chỉ sau khi tất cả các câu hỏi này đã được giải đáp thì khách hàng mới bằng lòng mua sản phẩm.
Vì sao khách hàng bây giờ lại cẩn thận và kén chọn đến vậy?
Rõ ràng nỗi lo sợ những hiểm họa từ thực phẩm không an toàn đã làm tăng lượng tiêu thụ các sản phẩm sạch. Khách hàng ngày nay phải tiếp xúc với nhiều đồ ăn không an toàn như nông sản, hải sản bị ngâm trong thuốc trừ sâu hay các sản phẩm biến đổi gen. Thêm vào đó, nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường ngày càng tăng đã buộc các cửa hàng, siêu thị lớn lập thêm các gian hàng bán thực phẩm thân thiện môi trường. Các hãng sản xuất thực phẩm, đồ uống cũng tung ra thị trường các loại sản phẩm bánh kẹo, nước giải khát được làm từ nguyên liệu tự nhiên. Do đó, thị trường kinh doanh các sản phẩm “xanh” thân thiện với môi trường ngày càng sôi động, và đang trở thành ngành công nghiệp chủ đạo của Hàn Quốc.
Ông Kim Chung-hyun, chuyên viên thuộc Phòng Tiếp thị của Công ty Làng Xanh giải thích. “Các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ thân thiện môi trường đã được sản xuất ở Hàn Quốc từ những năm 1960 và 1970. Lúc đó, chúng thường được bán với quy mô nhỏ, trực tiếp từ nông dân đến những người tham gia phong trào bảo vệ môi trường. Nhưng xu hướng sản xuất những sản phẩm xanh này thực sự trở nên phổ biến từ những năm 90 của thế kỷ 20 và đã nở rộ vào những năm đầu thế kỷ 21. Do khách hàng ngày nay có ý thức về môi trường và coi trọng sức khỏe của mình hơn nhiều so với trước kia cho nên số lượng cửa hàng bán thực phẩm thân thiện môi trường cũng tăng lên đáng kể. Công ty Làng Xanh của chúng tôi được thành lập vào năm 2000 đã phát triển nhanh với 50 cửa hàng vào năm 2003 và 100 cửa hàng vào năm 2004. Hiện nay, công ty có khoảng 220 cửa hàng đang hoạt động trên cả nước”.
Công ty Làng Xanh và các cửa hàng bán sản phẩm hữu cơ địa phương đã đạt doanh thu 590 tỷ won (hơn 520 triệu USD) vào năm ngoái và tăng trưởng hơn 40% so với năm trước đó. Hiện nay thị trường nông nghiệp xanh Hàn Quốc ước tính sẽ đạt khoảng 3,27 tỷ USD. Thị trường thân thiện môi trường này không chỉ lớn mạnh mà còn phong phú về chủng loại mặt hàng. Ban đầu những khu chợ xanh chỉ bán hàng thiết yếu như thịt, hoa quả, rau, nhưng hiện nay bán cả nhiều loại mặt hàng khác, từ chất tẩy rửa, mỹ phẩm đến quần áo. Ngày càng có nhiều khách hàng tìm kiếm những sản phẩm an toàn và thân thiện với môi trường.
Tiêu dùng các mặt hàng an toàn cho sức khỏe, thân thiện với môi trường không chỉ là mốt nhất thời mà chắc chắn sẽ là xu hướng mới của thế kỷ 21 này. Châu Âu, đặc biệt là Đan Mạch và Đức, từ lâu đã thực hiện quảng bá lối sống văn minh này trong người dân. Nước láng giềng của Hàn Quốc là Nhật Bản cũng đang mở rộng chính sách thúc đẩy tiêu dùng xanh. Chính phủ Hàn Quốc cũng đang từng bước thực hiện mục tiêu trở thành 1 trong những “cường quốc xanh” của thế giới.
Ngọc Mỹ (Theo KBS)

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Hội thảo Luật Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010

Từ 22/6 đến 30/6/2011

Ngày 17 tháng 11 năm 2010, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ Quyền lợi người tiêu dùng (Luật BVQL NTD). Luật được áp dụng đối với người tiêu dùng; tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam.
Luật BVQL NTD 2010 thay thế cho Pháp lệnh BVQL NTD năm 1999. Sự ra đời của Luật này đánh dấu một mốc quan trọng trong công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực BVQL NTD, đáp ứng kịp thời yêu cầu BVQL NTD trong nền kinh tế thị trường.
So với quy định trước đây về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật BVQL NTD 2010 có nhiều điểm mới, trong đó đáng chú ý là những quy định về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cụ thể, cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thực hiện một số hành vi như: Lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác về sản phẩm, uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân; Quấy rối người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hoá, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng từ 2 lần trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt bình thường của người tiêu dùng; Ép buộc người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, khắc phục những bất cập trong Pháp lệnh BVQL NTD năm 1999 trong vấn đề kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung, Luật yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu do Thủ tướng Chính phủ ban hành phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Luật BVQL NTD 2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2011. Để chuẩn bị cho sự kiện này, Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên Giai đoạn III (EU-Việt Nam MUTRAP III) tổ chức tuần lễ truyền thông phổ biến về Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Tuần lễ truyền thông diễn ra từ ngày 22 đến 30 tháng 6 năm 2011, nhằm quảng bá Luật BVQL NTD, nâng cao nhận thức của công chúng về những quyền hợp pháp của người tiêu dùng được pháp luật bảo vệ và các cơ quan chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Trong tuần lễ truyền thông, ba hội thảo sẽ được tổ chức tại 3 thành phố lớn là Đà Nẵng (22/6), Tp. Hồ Chí Minh (24/6) và Hà Nội (30/6) với chủ đề “Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng – Công cụ pháp luật hữu hiệu bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam”.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Danh Vĩnh tham dự và chủ trì các hội thảo. Hội thảo có các bài tham luận của nhiều chuyên gia trong nước và chuyên gia quốc tế về những vấn đề đang được cộng đồng người tiêu dùng Việt Nam quan tâm: quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kinh nghiệm của châu Âu trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong các cuộc hội thảo, Dự án MUTRAP III sẽ phổ biến rộng rãi Bộ tài liệu giới thiệu Luật BVQL NTD, gồm 6 cuốn sổ tay hỏi đáp về Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bộ tài liệu được thiết kế giản dị, đẹp mắt, dễ hiểu, nhằm truyền tải đến công chúng những  nội dung cơ bản nhất của Luật BVQL NTD.

Ngoài ra, bên cạnh hội thảo tại Hà Nội ngày 30/6, một cuộc họp báo sẽ được tổ chức, dưới sự chủ tọa của Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Danh Vĩnh. Cuộc họp báo có chủ đề “Tuần lễ truyền thông phổ biến về Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010”.

Thời gian và địa điểm và tổ chức Hội thảo:
22/6: Green Plaza, 238 Bạch Đằng, TP Đà nẵng
24/6: Khách sạn Rex, 141 Nguyễn Huệ, Q.1, TP. Hồ Chí Minh
30/6: Khách sạn Sheraton, 11 Xuân Diệu, Hà Nội