Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Đánh thuế túi nylon không thân thiện môi trường - Băn khoăn trước giờ thực hiện


Chỉ còn vài tháng nữa, Luật Thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực (ngày 1-1-2012). Theo luật này, túi nylon không thân thiện môi trường sẽ phải chịu thuế bảo vệ môi trường. Nhiều chuyên gia về môi trường cho rằng đây là một quyết định đúng đắn, song thực hiện ra sao để luật thực sự giúp hạn chế việc sử dụng túi nylon vẫn là vấn đề gây tranh cãi.
Chưa có tiêu chí
Mặc dù đã hơn 1 năm nay tháng nào cũng xuất khẩu từ 1-2 container sản phẩm bao bì tự hủy qua Mỹ, Canada và Australia, song sản phẩm của Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ Phúc Lê Gia vẫn chưa được “chính danh” ở thị trường trong nước. Giám đốc Công ty Lê Lộc cho biết, vấn đề là các bộ ngành liên quan chưa có tiêu chí cụ thể cho loại sản phẩm này nên thị trường trong nước chưa biết gọi tên gì cho đúng bản chất của chúng. Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ Phúc Lê Gia cùng nhiều doanh nghiệp (DN) sản xuất loại bao bì đã từng kiến nghị bức xúc này lên cấp thẩm quyền và trong khả năng của mình, nhiều bộ ngành cũng đã nhiệt tình hướng dẫn các DN chủ động xây dựng và đăng ký chất lượng sản phẩm với các cơ quan quản lý chuyên ngành.
Giao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm về sản phẩm cho DN trong khuôn khổ pháp luật là một hướng đi linh hoạt, sáng tạo và đúng đắn. Thế nhưng, có lẽ do chưa tính toán kỹ nên chủ trương này đã “đụng” Luật Thuế bảo vệ môi trường. Khoản 3, Điều 2 Nghị định 67/2011 triển khai thi hành Luật Thuế bảo vệ môi trường quy định: những túi nylon đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường theo quy định của Bộ TN-MT được miễn đóng thuế.
Tiến sĩ Lê Văn Khoa, Giám đốc Quỹ Tái chế TPHCM, cho biết: Bộ TN-MT chưa có tiêu chí này nên chẳng biết căn cứ vào đâu để xác định túi nylon thân thiện với môi trường? Chưa hết, về nguyên tắc Bộ TN-MT không có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn chất lượng mà đây là trách nhiệm của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng thuộc Bộ Khoa học Công nghệ. Từ nay đến khi Luật Thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực, liệu Bộ TN-MT có kịp làm việc với Bộ Khoa học Công nghệ để ban hành bộ tiêu chí như quy định? Việc này đang là nỗi bức xúc rất lớn đối với các DN sản xuất túi nylon thân thiện với môi trường. Nhất là khi chi phí để sản xuất các sản phẩm ấy thường cao hơn chi phí sản xuất túi nylon thường nhiều lần. DN rất cần sự hỗ trợ bằng cơ chế chính sách của nhà nước để sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Đánh thuế: Chưa đủ
PGS-TS Phùng Chí Sỹ, Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường, cho rằng đánh thuế cho các sản phẩm túi nylon không thân thiện với môi trường là quyết định đúng. Tuy nhiên, ông vẫn băn khoăn trước sự tiện dụng của loại túi này và giá thành dù đã được đánh thuế nhưng vẫn còn khá rẻ. Hiện nay, giá 1kg túi nylon tùy loại chỉ khoảng vài chục ngàn đồng. Dù có chịu thuế, giá 1kg cũng chỉ hơn 100.000 đồng. Mức giá này là không cao đối với nhiều người, nhiều DN. Do vậy, quan điểm của ông Phùng Chí Sỹ là: Bên cạnh việc đánh thuế bảo vệ môi trường đối với túi nylon không thân thiện môi trường, nhà nước vẫn cần có thêm nhiều cơ chế khuyến khích DN tìm tòi, đầu tư, sản xuất ra nhiều hơn nữa các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đặc biệt, đối với người dân, công tác tuyên truyền, vận động không sử dụng túi nylon không thân thiện với môi trường phải được tiến hành thường xuyên, lâu dài.
Ngoài lý do giá túi nylon dù đánh thuế vẫn còn khá rẻ, không loại trừ khả năng nếu người dân vẫn còn thói quen sử dụng túi nylon không thân thiện môi trường, các nhà cung cấp sẽ tìm cách đưa thuế môi trường mà đáng lẽ họ phải chịu vào trong giá bán hàng. Người mua hàng sẽ trở thành người phải chịu thuế và như vậy mục tiêu giảm sản xuất, tiêu thụ túi nylon không thân thiện với môi trường của nhà nước không đạt được kết quả như mong muốn.

Nhựa là một chất bền vững trong môi trường. Bao bì nhựa trong điều kiện tự nhiên mất khoảng 400 năm để phân hủy hoàn toàn. Tuy nhiên khi thải ra môi trường nhựa gây tác động xấu tới các nguồn nước như gây cản trở lưu thông, mất thẩm mỹ và gây tắc nghẽn các công trình thủy lợi, trạm bơm nước...
– Việc xuất hiện túi nhựa với khối lượng lớn trong đất, đặc biệt những khu vực có trồng cây sẽ làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cây do hệ thống màng bao của túi quấn vào các điểm hấp thụ trong hệ rễ cây, nếu túi nylon xuất hiện trong rác thải tại bãi chôn lấp sẽ làm giảm hiệu quả của các quá trình xử lý.
– Những khối lượng túi nhựa không được xử lý triệt để ngoài tự nhiên sẽ là môi trường rất tốt cho các loại vi sinh vật độc hại phát triển.
Hiện nay trên địa bàn TPHCM có hơn 10.000 cơ sở tư nhân sản xuất bao bì nhựa, túi nylon hoạt động. Trong khi đó, tổng số lượng cơ sở sản xuất bao bì giấy hoặc các loại túi đựng làm từ chất liệu khác được sử dụng nhiều lần chưa bằng 1/5 số lượng cơ sở sản xuất túi nhựa.
– Mỗi ngày, ở TPHCM có hơn 120 tấn bao bì các loại được tiêu thụ cho tất cả các mục đích sử dụng như đóng gói hàng hóa, chứa sản phẩm, chứa rác hay các yêu cầu đặc biệt cho các lĩnh vực khác như nông nghiệp, y tế…
– Trong khối lượng bao bì đáng kể nêu trên, bao bì làm từ chất dẻo (plastic) chiếm phần lớn (hơn 60% sản lượng tiêu thụ, tức khoảng gần 80 tấn/ngày). Ngoài ra còn một số loại bao bì khác cũng được sử dụng tuy không được phổ biến bằng, đó là túi giấy hoặc các loại túi, bao bì được sử dụng nhiều lần.
Nguồn: Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường.
Luật Thuế bảo vệ môi trường– Khoản 4, Điều 3: Túi nylon thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường.
– Điều 8: Mức thuế đối với túi nylon thuộc loại chịu thuế là 30.000 - 50.000 đồng/kg.
Nghị định số 67/2011/NĐ-CP
– Khoản 3, Điều 2: Đối với túi nylon thuộc loại chịu thuế (túi nhựa) là loại túi, bao bì nhựa mỏng làm từ màng nhựa đơn HDPE, LDPE hoặc LLDPE (Linear low density polyethylene resin), trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hóa và túi nylon đáp ứng tiêu chí thân thiện môi trường theo quy định của Bộ TN-MT.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Hướng tới tiêu dùng xanh: Chiếc túi thân thiện với môi trường

Môi trường đất, nước, không khí của chúng ta đang bị hủy hoại dần bởi một thủ phạm đó là túi nilon. Hãy chuyển sang sử dụng các vật liệu khác thân thiện với môi trường hơn như túi mua hàng sử dụng nhiều lần, có thể tái chế hay là túi tự phân hủy sinh học để duy trì màu xanh của trái đất, của chính môi trường chúng ta.
Đó là thông điệp mà nhóm ba bạn Phùng Thị Thu Hà, Đỗ Thu Thủy và Phạm Thị Thủy (Green Consumer), sinh viên Khoa Quản trị kinh doanh - K44, trường Đại học Ngoại Thương gửi đến Cuộc thi Môi trường và Phát triển do Bộ TN&MT phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức với mục đích nâng cao ý thức và ứng xử thân thiện với môi trường của mỗi người dân nói riêng và cộng đồng nói chung. Với ý tưởng thành lập Công ty TNHH Green Consumer chuyên sản xuất và phân phối các dòng sản phẩm thân thiện với môi trường, đó là túi mua hàng thân thiện môi trường (túi Envi) và túi tự phân hủy sinh học, các bạn đã đạt giải ba Cuộc thi. Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đổi với nhóm Fly High.
PV: Xuất phát từ ý tưởng nào mà các bạn xây dựng Dự án Túi thân thiện với môi trường?
Ý tưởng thành lập Công ty với dự án Túi thân thiện với Môi trường đã được nhóm bắt đầu viết khi tham gia cuộc thi “Nhà doanh nghiệp HSBC” – “HSBC Young Entrepreneur Award 2008” (HSBC YEA). Bản tóm tắt dự án của nhóm khi tham gia HSBC YEA đã được giải nhì toàn quốc. Sau đó, thông qua báo điện tử, nhóm biết đến Cuộc thi Môi trường và Phát triển nên đã quyết định tiếp tục hoàn thiện nội dung dự án để tham gia Cuộc thi với một mong ước dự án sẽ được nhiều người hoạt động trong lĩnh vực môi trường quan tâm, góp phần đưa dự án vào triển khai trong thực tế.
PV: Các bạn có thể giới thiệu rõ hơn về sản phẩm của mình và ích lợi của nó đối với môi trường của chúng ta ?
Trong dự án, nhóm đưa ra 2 dòng sản phẩm chính. Đó là túi Envi - sản phẩm do nhóm thiết kế và sáng tạo, có các bánh xe làm giảm sức nặng của đồ, giúp công việc nội trợ trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng hơn. Kích thước của túi phù hợp để có thể mua và đựng được một lượng lớn thức ăn trong một lần đi chợ. Túi chia thành nhiều ngăn làm giảm tối đa lượng túi nilon trong mỗi lần đi chợ, đảm bảo vệ sinh vì đồ ăn không bị chồng chéo lên nhau. Đặc biệt, chất liệu của túi Envi gồm có: giỏ lưới khung làm bằng inox rỗng; hệ thống khay làm bằng nhựa chất lượng cao có thể tái chế 85% thân thiện với môi trường; lớp bao bọc bên ngoài làm bằng vải bao bố có tráng một lớp nhựa mỏng bên trong để có thể dễ dàng vệ sinh. Ngoài ra, túi Envi dành cho người nội trợ được nhóm thiết kế dựa trên những túi kéo được bày bán tại các siêu thị trên cả nước đáp ứng nhu cầu thời trang, thẩm mỹ của khách hàng.
Sản phẩm thứ hai là túi tự phân hủy sinh học có khả năng tự phân hủy từ 6 tháng đến 1 năm so với túi nilon bình thường là hàng nghìn năm, góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm tiền nhà nước trong việc tái chế, xử lý rác thải túi nilon. Được sản xuất kết hợp với các chất phụ gia như tinh bột sắn, ngô, ion Mangan 2+... nên khi bị phân huỷ, sản phẩm sẽ chuyển hóa thành các chất mùn, các dạng thức ăn nuôi dưỡng vi sinh vật trong đất, làm giàu cho đất.
PV: Trong quá trình thu thập tài liệu viết về Dự án, các bạn có gặp những thuận lợi và khó khăn gì không?
Dự án với mong muốn chính là giảm thiểu thậm chí thay thế hoàn toàn thói quen sử dụng túi nilon của người tiêu dùng để góp phần bảo vệ môi trường nên đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ và khích lệ của các cá nhân tâm huyết quan tâm đến môi trường như Tiến sĩ Phạm Ngọc Lân – Giám đốc phòng thí nghiệm trọng điểm Polyme và Compozit thuộc trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thắng – Phó chánh văn phòng Phát triển bền vững - Bộ Kế hoạch Đầu tư và các nhân viên tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)... Đặc biệt, thông qua những buổi nói chuyện, phỏng vấn với Tiến sĩ Phạm Ngọc Lân, nhóm chúng tôi đã có thêm thôngtin chính xác về hạt tiền phân hủy- thành tố chính tạo nên túi tự phân hủy sinh học, hiện đang được phát triển ở Việt Nam do chính tiến sĩ làm giám đốc dự án.
Bên cạnh đó, nhóm cũng gặp một số khó khăn như tài liệu tiếng Việt về túi tự phân hủy sinh học rất hiếm, hầu như không có, chủ yếu là tài liệu tiếng nước ngoài. Ví dụ như chúng tôi đã đến Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng để xây dựng quy chuẩn về sản phẩm của Công ty song sản phẩm tự phân hủy sinh học còn mới mẻ ở Việt Nam mới nên không có tiêu chuẩn chất lượng. Chúng tôi đã đến thăm một vài xưởng sản xuất và nhận được không ít lời từ chối hợp tác, đặc biệt là từ các xưởng sản xuất nhỏ, có lẽ do họ cũng nhận thức được việc sản xuất túi nilon không đảm bảo vệ sinh, an toàn và ảnh hưởng đến môi trường. Riêng đối với sản phẩm túi Envi do nhóm tự nghĩ và thiết kế nên thông tin về việc sản xuất túi gặp nhiều khó khăn do là sản phẩm mới trên thị trường.
Hơn nữa, để đưa ra những thông tin cụ thể, chính xác về sản phẩm của mình nhằm thuyết phục hội đồng chấm thi, chúng tôi đã phải đi thực tế nhiều và đôi khi không nhận được sự hợp tác của một vài cá nhân và tổ chức.
PV: Tất cả các sản phẩm do các bạn thiết kế đều mới dừng ở lý thuyết, vậy sau khi rời giảng đường đại học, các bạn có ý định tiếp tục triển khai ý tưởng của mình trong thực tiễn hay không? Nếu tiếp tục các bạn sẽ dự định vào thời gian nào?
Dòng sản phẩm túi tự phân hủy sinh học nhóm đưa ra tuy khá mới mẻ tại Việt Nam song không phải là không có. Hiện tại đang có rất nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam sản xuất túi tự phân hủy sinh học nhằm phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Song giá thành túi này còn khá cao so với túi nilong nên sức cạnh tranh còn yếu. Nhóm đã khắc phục được điểm yếu về giá thành của túi bằng nhiều giải pháp đã được chứng minh là khả thi như cho in quảng cáo trên túi, tặng hoa hồng cho các đại lý bán hàng lớn hơn hoa hồng túi nilon... Do vậy, nếu sản phẩm túi tự phân hủy sinh học của nhóm được sản xuất ra thị trường với giá thành bằng giá túi nilong trong khi đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và môi trường, nhóm tin chắc rằng sản phẩm sẽ đem lại thành công và hoàn toàn có thể thay thế túi nilon. Túi Envi được thiết kế với nhiều tính năng hơn và đặc biệt là góp phần giảm thiểu túi nilong nên nhóm chắc chắn rằng, đây là một sản phẩm khả thi, không hề phi thực tế và hoàn toàn có thể đưa vào sản xuất sau khi được thẩm tra chất lượng.
Trong tương lai, nhóm chúng tôi có ý định trước tiên sẽ đi bảo hộ trí tuệ ý tưởng sản phẩm và sau đó sẽ đưa lên sàn giao dịch ý tưởng. Với một dự án lớn như vậy, cần nhiều về nguồn lực thì nhóm chúng tôi chưa đủ điều kiện để thực hiện. Song, nhóm cũng mong rằng thông qua cuộc thi Môi trường và Phát triển, sẽ có nhiều cá nhân, tập thể quan tâm đến dự án của nhóm và đầu tư đưa dự án vào triển khai trong thực tế, đem lại những lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng, xã hội và môi trường.
PV: Xin cám ơn các bạn về cuộc trao đổi
(Ảnh: Thứ tự từ trái qua phải: Đỗ Thu Thủy – Phạm Thị Thủy – Phùng Thị Thu Hà)

Green Marketing - Túi nylon - Cần có một cuộc cách mạng

Túi nylon được biết đến như một vật hết sức tiện lợi trong đời sống sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên, đây lại là một loại rác thải cực kỳ nguy hiểm cho môi trường. Thế mà, chỉ riêng TP.HCM, mỗi ngày phải hứng chịu khoảng trên 30 tấn rác thải là túi nylon.

Cứ mỗi sáng, bà Nguyễn Thị Thanh ngụ ở quận 4, TP.HCM đều đi chợ. Mỗi loại thực phẩm bà mua đều được người bán bỏ vào 1 túi nylon. Sự tiện lợi thấy rõ, vì mỗi thứ mỗi túi, không lẫn lộn với nhau. Cứ thế, có hôm bà mang về hàng chục túi nylon. Bà Thanh cho nói: "Thấy nó cũng tiện lợi, sạch sẽ, mình xài xong thì bỏ".

Không chỉ bà Thanh, mà gần như tất cả mọi người đều thấy được sự tiện lợi này. Vì thế, ai ai cũng dùng túi nylon để chứa đựng bất cứ thứ gì có thể. Hầu hết các siêu thị, các chợ, trung tâm thương mại, các cửa hàng bách hóa, shop thời trang... đều sử dụng túi nylon. Túi nylon còn được mọi người sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.

Theo kết quả khảo sát thực tế của Quỹ tái chế TP.HCM, tình trạng sử dụng túi nylon trong cộng đồng hiện rất cao. Có đến 93% người dân khi đi mua hàng không mang theo túi đựng vì chắc chắn rằng người bán sẽ cung cấp. Những người này cho rằng mang theo túi đi mua hàng sẽ khá bất tiện. Mặt khác, có đến 28% người dân vứt ngay túi nylon sau khi mua hàng về, một số người khác giữ lại những túi còn sạch để đựng rác.

Hiểm họa khó lường

Việc sử dụg túi nylon tràn lan dẫn đến hậu quả là môi trường đang chịu sự tác động rất lớn của loại rác thải nguy hiểm này. Chỉ tính riêng địa bàn TP.HCM, mỗi ngày, môi trường nơi đây phải hứng chịu khoảng trên 30 tấn túi nylon. Trong đó khu vực phát sinh nhiều nhất là chợ chiếm 70%, kế đến là siêu thị 25% và cuối cùng là trung tâm thương mại 3%. 30 tấn không phải là con số lớn, nhưng nylon có trọng lượng rất nhẹ, do vậy nếu xét về tiết diện, thì 30 tấn nylon này chiếm một không gian quá lớn.

Có một chi tiết rất nguy hiểm từ túi nylon mà cộng đồng có thể chưa biết hoặc đã biết nhưng chưa có ý định thay đổi cách sử dụng tiện lợi nói trên. Đó là trong môi trường đất, phải mất khoảng 400 năm, túi nylon mới tự phân hủy.

Tiến sĩ Lê Văn Khoa, Giám đốc Quỹ tái chế TP.HCM cho biết: "Túi nylon sử dụng tràn lan hiện nay chính là hiểm họa của môi trường. Do trọng lượng nhẹ, nên nó vương vãi khắp nơi, rồi khi ra tới bãi rác thì nó làm cho vi sinh trong rác khó phân hủy, ngăn quá trình thẩm thấu nước ngầm. Mặt khác, túi nylon lơ lửng trong nguồn nước sẽ vướng vào chân vịt của các loại ghe tàu...".

Nếu không giải quyết thực trạng này, hàng loạt vấn đề về môi trường, môi sinh, cảnh quan… sẽ đồng loạt xảy ra. Dễ nhận thấy nhất là những mảng rác túi nylon rất lớn tích tụ trên các con sông, kênh thoát nước nội ô… làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước, gây ngập mỗi khi trời mưa. Túi nylon lẫn trong đất sẽ phá hủy hệ thống đất nông nghiệp, gia tăng thể tích bãi rác, cản trở sự phân hủy của rác, tăng chi phí ngân sách trong xử lý rác…

Đó là chưa kể, trong quá trình xử lý bằng phương pháp đốt có thể phát sinh khí dioxin gây nguy hại đến sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, do túi nylon được sử dụng phân tán rộng trong cộng đồng nên việc thu gom, xử lý, tái chế trở nên rất khó khăn và tốn kém.

Nói về các giải pháp khắc phục, Tiến sĩ Khoa cho rằng, cần phải quản lý chặt việc sản xuất túi nylon, tuyên truyền người dân sử dụng túi vải, túi giấy, túi tái chế, nghiên cứu chế tạo túi nylon tự rã, phân hủy sinh học.

Giải pháp thay thế túi nylon

Thời gian gần đây, nhiều cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đã nỗ lực nghiên cứu và chế tạo những sản phẩm ít gây tác hại cho môi trường. Đây là một trong những dòng sản phẩm đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam dùng để thay thế túi nylon hiện hành. Sản phẩm này còn gọi là túi nylon tự hủy do Công ty TNHH Phúc Lê Gia và Công ty cổ phần Nhựa - Xây dựng Đồng Nai hợp tác sản xuất.

Theo công bố của đơn vị sản xuất, túi nylon tự hủy này có thể tự tan rã trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm. Trong khi đó độ chắc chắn của sản phẩm không hề thua túi nylon thông thường. Thành phần chính của các loại túi nylon tự hủy này chính là hỗn hợp vật liệu nylon với vật liệu tự hủy. Với cách làm này, giá thành sản phẩm ở mức ngang bằng với loại nylon hiện hành nhưng cái được lớn hơn là sự thân thiện với môi trường của dòng sản phẩm này.

Ông Lê Lộc, Giám đốc Công ty TNHH Phúc Lê Gia cho biết, hiện tại ông đang sử dụng những hóa chất thân thiện với môi trường để sản xuất túi nylon tự hủy. Mong muốn lớn nhất của ông là ngày càng có nhiều nhà sản xuất túi nylon tự hủy để kích thích ngành này phát triển và làm cho người tiêu dùng quen với loại vật dụng thân thiện với môi trường này.

Hiện tại, Liên doanh Phúc Lê Gia và Nhựa - Xây dựng Đồng Nai đang được các siêu thị trong nước đặt sản xuất loại túi nylon này với số lượng rất lớn. Nhiều đơn vị, doanh nghiệp trong nước, nhờ ý thức rõ tác hại của túi nylon thông thường, cũng đã đặt hàng liên doanh này sản xuất túi nylon tự hủy cho riêng đơn vị mình.

Để thiết thực bảo vệ môi trường chung, cùng với việc tìm giải pháp sản xuất đại trà túi nylon tự hủy với giá thành thấp nhằm thay thế túi nylon hiện hành của các doanh nghiệp; người tiêu dùng cũng cần được và tự nâng cao ý thức trong việc giữ gìn môi trường, bằng những hành động cụ thể như nói "không" với việc sử dụng túi nylon thông thường, không vứt thải bừa bãi túi nylon ra xung quanh...

Nguồn: Yeumoitruong
 
Nguyễn Đăng Duy Nhất
Chủ tịch CMO Council Worldwide tại Việt Nam
Giám Đốc Điều Hành - Global Elite Consulting Corporation

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2011

Thương hiệu Hoa Đà Lạt (Địa Lan)

Hoa Đà Lạt được cấp chứng nhận nhãn hiệu
Cập nhật lúc 10:25, Thứ Ba, 27/12/2011 (GMT+7)
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin, ngày 26-12, ông Lưu Đức Thanh, Trưởng phòng Chỉ dẫn địa lý (Cục Sở hữu Trí tuệ), cho biết hoa Đà Lạt vừa được cấp đăng ký chứng nhận nhãn hiệu với chủ nhãn hiệu là UBND TP Đà Lạt.
<>
Niềm vui của nông dân trồng hoa Thái Phiên (phường 12, Đà Lạt) khi hoa Đà Lạt được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu. Ảnh Nguyên Thi
Để được cấp chứng nhận nhãn hiệu, cá nhân, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện về quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm. Cụ thể, để được dùng nhãn hiệu hoa Đà Lạt, cá nhân, doanh nghiệp phải trồng hoa tươi tại TP Đà Lạt hoặc các vùng phụ cận, phải được UBND TP Đà Lạt cho phép.

Cá nhân, doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện, không được UBND TP Đà Lạt cho phép thì dù trồng và kinh doanh hoa tại Đà Lạt nhưng vẫn không được dùng tên hoa Đà Lạt. Hoa tươi vùng khác không được lấy tên tương tự để tránh gây nhầm lẫn. Nhãn hiệu và biểu trưng (logo) hoa Đà Lạt có thể được dùng kèm với nhãn hiệu hoa tươi riêng của từng cá nhân, doanh nghiệp.
Theo báo Pháo luật tp
Xây dựng thương hiệu hoa địa lan Đà Lạt
Thứ sáu, 18/03/2011, 10:40 (GMT+7)
(SGGPO).- Sở Khoa học-Công nghệN tỉnh Lâm Đồng cho biết, đơn vị đang phối hợp với Hiệp hội Hoa Đà Lạt tiến hành xây dựng nhãn hiệu chứng nhận “Đà Lạt” cho sản phẩm hoa địa lan của TP Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng).
Theo thống kê, hiện Đà Lạt có khoảng 300 – 400 hộ trồng địa lan với quy mô 200 chậu trở lên. Giá hoa địa lan cắt cành từ 40.000 đồng – 70.000 đồng/cành, còn dịp lễ, tết có giá 150.000 đồng – 450.000 đồng/cành (bán theo chậu); một số giống mới còn có giá đến 1,5 triệu đồng/cành.
Nhìn chung, việc trồng và kinh doanh hoa địa lan tại Đà Lạt vẫn mang tính tự phát, chất lượng chưa đồng đều. Đặc biệt, nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng danh tiếng hoa địa lan Đà Lạt để đưa ra thị trường sản phẩm hoa địa lan mang thương hiệu Đà Lạt nhưng không phải xuất xứ từ Đà Lạt. 
Vì vậy, việc xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu hoa địa lan Đà Lạt là rất cần thiết, nhằm bảo đảm việc kiểm soát chất lượng, xúc tiến thương mại, góp phần nâng cao giá trị cho hoa địa lan Đà Lạt. Đồng thời, giúp người tiêu dùng phân biệt được hoa địa lan có xuất xứ từ Đà Lạt và hoa địa lan trồng nơi khác.
Địa lan Đà Lạt sẽ có giá hơn khi được xây dựng thương hiệu.

Chợ Nông Sản Việt Nam

Đề án Chợ Nông Sản Việt
Ngày 1 tháng 5 năm 2011, IME Vietnam đã gởi cho BTK Dự án Tiếp thị Nông Sản Việt, CLB Xây dựng Thương hiệu Nông sản Việt" (Vietnammarcom là đại diện) đề án "Chợ Nông Sản Việt". "Chợ Nông Sản Việt" là một đề án được IME Vietnam đề xuất và tài trợ hướng đến các mục tiêu sau:
Mục tiêu của đề án
. 
Quảng bá cho chiến lược nông sản mới của VN là “sạch, phát triển bền vững”, xem đây là một lợi thế cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam, giúp giảm nhập siêu về mặt nông sản.

Xây dựng hình ảnh nước Việt Nam với những sản phẩm nông nghiệp an toàn, phát triển bền vững trong con mắt người tiêu dùng thế giới.

Giáo dục nhận thức và tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng về nông sản sạch gắn liền với phát triển bền vững.

Hỗ trợ nông dân, những người chấp nhận rủi ro thách thức để cùng đồng hành với nhà nước trong định hướng chiến lược nông sản mới nầy, tiếp thị các nông sản được trồng trọt theo các phương pháp phát triển bền vững.

Vài nét về Chợ Nông Sản Việt. 
Chợ nông sản trong trung tâm thành phố là một mô hình tiếp thị nông sản đã được tổ chức thành công như là một điểm nhấn của nhiều thành phố lớn trên thế giới (San Francisco, Washington, Mexico, Paris, Vancouver, Houston…). Hoạt động chợ là một phần của Chương Trình Xây Dựng Thương Hiệu Nông Sản và là một hoạt động vì lợi ích cộng đồng, phi lợi nhuận. {AF}Chợ Nông Sản Việt không phải là chợ của những người chuyên buôn bán mà là nơi nông dân, những người trực tiếp trồng trọt, đứng ra giới thiệu sản phẩm của mình. Trong khu vực chợ chỉ được bán nông sản và không có hoạt động thương mại gì khác.{/AF} Sản phẩm bầy bán phải là những nông sản đạt tiêu chuẩn nông sản phát triển bền vững của Việt Nam (trồng trọt tự nhiên, phương pháp hữu cơ), từ các nông trường đã được cấp giấy chứng nhận (không chấp nhận những sản phẩm trôi nổi, mua đi bán lại).
Kinh phí hoạt động của "Chợ Nông Sản Việt".

 Trong thời gian đầu (dự kiến 1 năm), chi phí hoạt động của chợ chủ yếu được trang trải từ các nguồn tài trợ. Sau đó, khi mà hoạt động của chợ đi vào ổn định, các hoạt động xúc tiến thương mại của chợ bắt đầu phát huy hiệu quả thì sẽ bắt đầu thu phí. Mức thu chỉ đủ để trang trải chi phí. Trong thời gian đầu, chi phí thực hiện đề án và tổ chức hoạt động của chợ sẽ được trang trải từ những nguồn sau: Chính quyền thành phố hỗ trợ từ ngân sách dành cho hoạt động xúc tiến thương mại.
Kêu gọi tài trợ, hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân (chỉ chấp nhận tài trợ vô điều kiện, không nhận đóng góp từ nông dân)

Công ty IME Vietnam đóng góp
 Hiện đề án đã được gởi đến các cơ quan chức năng, BTK CLB Xây dựng Thương hiệu Nông sản Việt với đại diện là Vietnammarcom. Đề án sẽ được triển khai sau khi được sư chấp thuận của chính quyền.

Thương hiệu Việt - Bảo vệ từ gốc

Thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột của tỉnh Đăk Lăk đã bị đăng ký độc quyền ở Trung Quốc. Thương hiệu mì chay Lá Bồ Đề của Công ty cổ phần thực phẩm Bình Tây (TP.HCM) vừa bị một doanh nghiệp ở Mỹ đăng ký bản quyền. Trước đó, hàng loạt thương hiệu của Việt Nam như cà phê Trung Nguyên, kẹo dừa Bến Tre, nước mắm Phú Quốc... cũng đã bị “đánh cắp” ở nước ngoài.


Vấn đề bảo vệ thương hiệu đang trở nên rất “nóng”. Tuy nhiên, việc “đòi” lại thương hiệu, thậm chí việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài cũng chỉ là các công đoạn cuối của quy trình bảo vệ thương hiệu.

Việc bảo vệ thương hiệu phải được đặt ra và “lồng” vào ngay từ ý tưởng tạo dựng thương hiệu, trong từng bước xây dựng thương hiệu, và trong cả quá trình phát triển thương hiệu. Nói cách khác, bảo vệ thương hiệu phải thực hiện từ “gốc”.
Hiểu đúng
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA), thương hiệu là một cái tên, biểu tượng, kiểu dáng hay là sự phối hợp các yếu tố trên, nhằm mục đích nhận dạng sản phẩm hay dịch vụ của một nhà sản xuất, và phân biệt với các thương hiệu của đối thủ cạnh tranh.
Theo định nghĩa của Al Ries, một chuyên gia thương hiệu thì “Thương hiệu là khái niệm duy nhất trong đầu khách hàng khi họ nghe nói đến công ty bạn”.
Luật Sở hữu trí tuệ 50/2005/QH11 của Việt Nam quy định: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình 3 chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.
Thương hiệu có những chức năng hỗ trợ xây dựng hình ảnh và tăng giá trị của sản phẩm trong tâm trí khách hàng, đồng thời cũng được dùng để truyền tải những cam kết của nhà sản xuất đến với khách hàng và cộng đồng.


Ví dụ, trong lĩnh vực xe hơi, khi nhắc đến Mercedes, BMW, Audi, Porches, người tiêu dùng thường nghĩ ngay đến dòng xe hơi đắt tiền dành cho giới thượng lưu; Toyota, Ford, Corolla dành cho giới trung lưu; còn Vios, Matiz dành cho giới tiêu dùng bình dân hơn.

Chuyên gia thương hiệu David A. Aaker đưa ra mô hình giá trị thương hiệu được cấu thành từ 5 yếu tố: Độ nhận biết thương hiệu (Brand Awareness), Lòng trung thành thương hiệu (Brand Loyalty), Chất lượng cảm nhận (Perceived Quality), Liên tưởng thương hiệu (Brand Associations), Các tài sản thương hiệu khác như kênh phân phối, bản quyền sáng chế... (Other Assets such as Channel, Patent, etc.)
Có sự khác biệt giữa thương hiệu sản phẩm (product branding) và thương hiệu công ty (corporate branding). Cũng cần phân biệt khái niệm thương hiệu với các dấu chỉ (mark) khác như: trademark, service mark, logo mark, combination mark.


Trademarks là những từ ngữ, tên gọi, dấu hiệu, công cụ và hình ảnh được sử dụng để nhận biết hàng hóa. Các ví dụ về trademarks: Heinz, nhạc chuông Nokia, dấu hiệu ngôi sao của Mercedes-Benz, Linux, Have a break - have a kit-kat, kiểu dáng của xe Toyota Lexus, tên Robbie Williams, Javascript, thỏi chocolate hình tam giác của Toblerone, chữ ký của David Beckham, 3 sọc logo của adidas...

Logo marks là biểu tượng bằng từ ngữ hoặc hình ảnh của thương hiệu. Con sò được sử dụng đầu tiên như là một trademark bởi Marcus Samuel và công ty vào năm 1891.
Công ty này kinh doanh nguyên thủy là đồ cổ và các vỏ sò. Logo vỏ ngọc trai đầu tiên được giới thiệu năm 1901, định hình vỏ sò vào năm 1904, và duy trì biểu tượng của Tập đoàn Shell Hoàng Gia Hà Lan từ đó tới nay.
Combination marks là sự kết hợp các dấu hiệu liên quan đến thương hiệu. Heinz là một trademark đã có từ lâu đời bao gồm tên Heinz và logo. Heinz nổi tiếng với khẩu hiệu “57 varieties” ở Mỹ và lập ngôn quảng cáo là “Beanz Meanz Heinz” ở Anh.
Được thành lập năm 1869 tại Pennsylvania bởi Henry John Heinz, với những sản phẩm gia vị chế biến đầu tiên được bán ở các cửa hàng tạp hóa địa phương, đến năm 1976, Heinz chính thức tung ra tương cà (ketchup) và các dấu hiệu được sử dụng đến ngày nay.
Service Marks có thể là những từ ngữ, tên gọi, dấu hiệu, công cụ và hình ảnh để nhận biết dịch vụ.


Tại Việt Nam, theo luật sư Phạm Trí Hùng, “Việc bảo vệ thương hiệu bao gồm khía cạnh xác lập quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và thực thi quyền SHTT. Việc xác lập quyền SHTT được thực hiện theo Luật SHTT 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Như được quy định trong Điều 6 Luật SHTT 2005, nhãn hiệu được bảo hộ trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký do Cục SHTT cấp, trong khi đó tên thương mại được bảo hộ trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
Nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT còn được xác lập trên cơ sở pháp luật cạnh tranh”.
Làm đúng
Vậy xây dựng giá trị thương hiệu mạnh như thế nào? Theo Aaker, có 3 bước chính để xây dựng giá trị thương hiệu dẫn đầu:
Bước 1: Phân tích thương hiệu chiến lược
Doanh nghiệp tiến hành 3 phân tích bao gồm phân tích khách hàng, phân tích đối thủ cạnh tranh và phân tích bản thân thương hiệu.
Bước 2: Xây dựng hệ thống nhận diệnthương hiệu
Doanh nghiệp xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu bao gồm 2 thành phần chính là nhận diện cốt lõi và nhận diện mở rộng. Nhận diện cốt lõi cần phải trả lời được sâu sắc các vấn đề như: Hồn của thương hiệu là gì? Niềm tin và giá trị thúc đẩy thương hiệu là gì? Năng lực cốt lõi của doanh nghiệp là gì? Tầm nhìn, sứ mạng và giá trị của doanh nghiệp ẩn đằng sau thương hiệu là gì?


Kẹo dừa Bến Tre từng bị mất thương hiệu ở nước ngoài
Sau khi đã có nhận diện cốt lõi, doanh nghiệp cần phải phát triển nhận diện mở rộng bao gồm những dấu hiệu bổ sung để hoàn thiện thương hiệu, bao gồm các yếu tố liên quan đến sản phẩm, tổ chức, con người và biểu tượng.

Ví dụ, nhận diện cốt lõi của Starbucks là Rewarding Everyday Moment (Giây phút mỗi ngày bổ ích), của Walt Disney là Fun Family Entertainment (Giải trí gia đình vui vẻ), của Nike là Authentic Athletic Performance (Thành tích thể thao đích thực).
Bước 3: Tổ chức hệ thống thực thi nhận diện thương hiệu
Rất nhiều doanh nghiệp xây dựng được hệ thống nhận diện thương hiệu nhưng tổ chức hệ thống thực thi nhận diện thương hiệu không hiệu quả, dẫn đến giá trị thương hiệu không được nâng cao mà giảm sút rõ rệt. Để hệ thống thực thi vận hành tốt, doanh nghiệp cần phải tiến hành 3 bước nhỏ: Định vị, thực thi và kiểm soát.
Định vị thương hiệu phải thể hiện được nhận diện thương hiệu và đề xuất giá trị, nhắm vào khách hàng mục tiêu, có thể truyền thông chủ động và chỉ rõ được lợi thế cạnh tranh.
Trong quá trình thực thi, cần áp dụng nhiều hình thức truyền thông thương hiệu, tối đa hóa hiệu quả của biểu tượng đã xây dựng và phải kiểm tra truyền thông thương hiệu. Kiểm soát hệ thống bằng cả nghiên cứu định tính và định lượng.
Ví dụ: định vị thương hiệu xà bông cục Dove - dành cho phụ nữ cảm thấy bị khô da, Dove Bar giúp làm cho làn da mềm mại bởi vì nó chứa ¼ kem làm mềm.
Hơn thế nữa, trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu, doanh nghiệp cần có chiến lược thương hiệu đi đôi với chiến lược kinh doanh; tăng cường sự khác biệt của chất lượng hàng hóa thiết kế thương hiệu; phát hiện kịp thời các hàng hóa ăn cắp thương hiệu;
nâng cao khả năng nhận biết thương hiệu thông qua các chiến dịch truyền thông tích hợp...
“Đánh” từ trong ra


Dấu hiệu của Heinz rất dễ nhận biết
Khi nói đến xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp thường nghĩ ngay đến việc xây dựng thương hiệu đối với khách hàng và các đối tác bên ngoài, tuy nhiên, xây dựng giá trị thương hiệu trong nội bộ là một nhân tố đóng góp quan trọng vào sự thành công của thương hiệu.
Lợi ích của công tác marketing nội bộ là:

• Khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn;
• Trao quyền cho nhân viên cho họ có thêm trách nhiệm và bổn phận;
• Tạo ra hiểu biết chung về tổ chức kinh doanh;
• Khuyến khích nhân viên cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng bằng cách đánh giá cao đóng góp có giá trị của họ cho sự phát triển của tổ chức;
• Giúp đỡ nhân viên học hỏi và có thể làm việc theo phong cách marketing;
• Cải thiện việc duy trì khách hàng và phát triển con người;
• Thống nhất văn hóa kinh doanh, cấu trúc, quản trị nhân sự, tầm nhìn và chiến lược với nhu cầu xã hội và nghề nghiệp của nhân viên;
• Tạo ra sự phối hợp và hợp tác tốt giữa các phòng ban trong công ty.
Hãy thử tưởng tượng một doanh nghiệp có khoảng 2.000 nhân viên mà tất cả nhân viên và gia đình của họ đều sử dụng sản phẩm thương hiệu của doanh nghiệp, như vậy doanh nghiệp đã tạo ra một doanh số nhất định và hình ảnh thương hiệu được quảng bá rộng rãi.
Chưa kể 2.000 nhân viên này có khả năng quảng bá rộng rãi đến bạn bè và các mối quan hệ khác bên ngoài công ty và gia đình.
Ngày nay có rất nhiều công cụ giúp hỗ trợ công tác marketing và xây dựng thương hiệu nội bộ, như email, bản tin điện tử, bản tin in, mạng nội bộ, mail âm thanh, thu âm, video, CD, câu đố, trò chơi, bảo vệ màn hình, băng rôn, poster, bảng hiệu, hộp thư về nhà, ăn mừng, họp mặt công ty, họp mặt trên mạng, hoạt động xã hội, trình diễn nội bộ, hệ thống chia sẻ kiến thức, thưởng, các vật dụng có logo công ty...
Và “mặc áo giáp” khi ra ngoài
Khi mở rộng kinh doanh ra các thị trường nước ngoài, ngoài việc thấu hiểu khách hàng, phân tích môi trường kinh doanh và hoạch định chiến lược thương hiệu, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền tại thị trường đó.


Mất thương hiệu là nguy cơ có thực và thường xuyên
Khi Coca Cola vào Việt Nam, họ đã đăng ký độc quyền thương hiệu Coca Cola, ngoài ra cũng đăng ký cả những dấu hiệu có thể gây nhầm lẫn. Do vậy, khi Tập đoàn URC sản xuất trà xanh C2 đăng ký thương hiệu độc quyền thì không thể thực hiện được vì Coca Cola đã đăng ký
thương hiệu C2 rồi, URC đành phải đăng ký dưới tên C2Cool&Clean.

Điều đó cho thấy, các thương hiệu lớn nhận thức rất cao về tầm quan trọng của việc xây dựngthương hiệu và đăng ký bảo hộ thương hiệu.
Đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài một lần nữa khẳng định giá trị thương hiệu của doanh nghiệp và là tiền đề để doanh nghiệp xâm nhập thị trường một cách tự tin và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp cần nắm vững hệ thống luật và trình tự tố tụng, đặc biệt với các
vấn đề liên quan đến kinh tế - kinh doanh của nước sở tại.
Nếu không có cán bộ chuyên trách hoặc không nắm vững các vấn đề này, doanh nghiệp cần phải thuê luật sư hoặc các tổ chức có chuyên môn nghiệp vụ để được tư vấn kịp thời.


MBA NGUYỄN ĐĂNG DUY NHẤT - Chủ tịch CMO Council Worldwide tại Việt Nam CEO Global Elite Consulting Corporation
(Xem file có hình ảnh)
 

Tiếp thị cộng đồng - Social Marketing

    Xã hội và văn hóa Việt nam từ bao đời qua luôn được xây dựng và vun đắp dựa trên nền tảng đạo đức của mỗi công dân. Để duy trì và phát huy những giá trị tốt đẹp này, dự án Mạng Tiếp thị cộng đồng được hình thành với mục tiêu:

    • Cung cấp một nền tảng hạ tầng kỹ thuật giúp các cá nhân, tổ chức,công ty có thể kết nối và chia sẻ những dự án, câu chuyện tiếp thị cộng đồng làm thay đổi cuộc sống.

    • Góp phần xây dựng một nền tảng giáo dục, công dân tốt, cộng đồng nhân văn thông qua việc ứng dụng khoa học truyền thông tiếp thị cộng đồng một cách thực tế sinh động.

    • Để khởi động, kích hoạt một làn sóng mới những câu chuyện, ý tưởng, dự án hay, đẹp, mang lại hiệu quả, giá trị xã hội của công dân và doanh nghiệp.

    • Tăng cường và củng cố các giá trị xã hội và văn hóa Việt Nam

    •Kết nối những hành trình từ trái tim để chung tay góp sức xây dựng cộng đồng xã hội Việt Nam ngày một tươi đẹp. Mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi việc làm giúp đỡ tự nguyện, mỗi tấm lòng trải rộng dù sớm hay muộn cũng sẽ gặp nhau trên cùng một hành trình bao la và vô tận của trái tim.

    Các chủ để triển lãm :

    • Education for Development - Giáo dục phát triển
    • Children Rights - Bảo vệ trẻ em
    • Literacy for Everyone - Xóa mù chữ
    • Urban Civilization - Văn minh đô thị
    • GREEN Marketing – Tiếp thị xanh
    • Family Violence - Bạo lực trong gia đình
    • Poverty Eradication - Xóa đói giảm nghèo
    • HIV/AIDS & Abortion – HIV / Nạo phá thai
    • Traffic Issues - Vấn nạn giao thông
    • Climate Change - Trái đất nóng lên

    Địa chỉ website của triển lãm : www.tiepthicongdong.vnwww.socialmarketing.vn
    • Triển lãm bắt đầu từ 10h sáng ngày 11/7/2011 đến 11/12/2011
    • Đăng ký nộp tác phẩm từ ngày: 1/ 5/ 2011
    • Hạn cuối nộp tác phẩm: 30/ 6/ 2011
    • Quy mô triển lãm: trên internet với sự hỗ trợ truyền thông của 18 website, mạng xã hội của các tổ chức chuyên gia.

    Tiêu chí lựa chọn tác phẩm, chiến dịch:


    – Nhân bản
    – Sức ảnh hưởng, lan tỏa lớn trong cộng đồng mục tiêu
    – Tính giáo dục
    – Bền vững
    – Sáng tạo / đổi mới


    Các đơn vị tham gia triển lãm :

    • Các tổ chức, doanh nghiệp, công ty Quảng cáo tại Việt Nam và nước ngoài
    • Các Trường Đại Học
    • Tác phẩm đoạt giải về tiếp thị cộng đồng của:
    -- Liên Hoan Quảng cáo Châu Á Thái Bình Dương - Adfest
    – Liên hoan quảng cáo New York
    – Tập đoàn giải thưởng Quốc tế ( IAG )
    – IAA – Châu Á
    • Các chuyên gia hành nghề tự do, Freelancer

    Các đơn vị tham gia triển lãm cần ghi rõ các thông tin sau:
    • Tên chiến dịch cộng đồng :
    • Bản tóm tắt giới thiệu về chiến dịch, dự án, câu chuyện ( tiếng Việt và tiếng Anh )
    • Tổ chức thực hiện: Tên, Thành phố, Quốc gia, thời gian thực hiện...
    • Trang web của dự án, chiến dịch
    • Mục dành cho các công ty quảng cáo
    – Giám đốc sáng tạo
    – Giám đốc nghệ thuật
    – Người viết quảng cáo
    – Người vẽ minh hoạ, phát triển ý tưởng
    – Nhà nhiếp ảnh
    – Đối tác dự án: nếu có
    – Công bố: Tháng, năm

    Nơi tiếp nhận dự án VietnamMarcom

    Email : vmc@vietnammarcom.edu.vn - www.tiepthicongdong.vn www.socialmarketing.vn
    ngocanh@vietnammarcom.edu.vn - phinguyen@socialmarketing.vn
    Đối tác đồng hành cùng sự kiện :

    Đối tác đồng hành cùng sự kiện :

    Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

    Công nghệ xanh

    Nước giải khát xanh
    Với hàng loạt những nguy hiểm tiềm ẩn trong các thành phần của nước uống như: nước nhiễm khuẩn, gây rối loạn dậy thì ở nữ giới, giảm khả năng sinh dục ở nam giới, không tốt cho tim mạch, về lâu dài, có thể gây ung thư nguy hại cho sức khỏe, những đe doạ đó đặt thị trường thực phẩm và đồ uống Việt Nam trước những thách thức to lớn.
    Theo ông Yokomizo Munechika, tổng giám đốc công ty TNHH nước giải khát Kirin Việt Nam, “Điều dễ thấy nhất là niềm tin của người tiêu dùng đã bị sụt giảm. Họ trở nên hoang mang, lo lắng và ngày càng thận trọng hơn khi lựa chọn sản phẩm, luôn cảnh giác với những thông tin mà nhà sản xuất đưa ra. Điều này đặt ra câu hỏi về đạo đức kinh doanh cho các công ty trong thị trường nước giải khát Việt Nam, họ đã nhận thức đúng tầm quan trọng về lợi ích của khách hàng hay chưa?”.
    Không ngồi đó chờ cơn bão qua đi, công ty Kirin Việt Nam đang đem “ruột gan” của mình ra để lấy lại niềm tin của người tiêu dùng, sẵn sàng tung ra những sản phẩm mới trong thời điểm thị trường nhạy cảm. Tiêu biểu là sản phẩm Latte và Ice+. Bởi theo ông Yokomizo, “thách thức luôn đi cùng với cơ hội, cùng với sự đào thải của thị trường, đây chính là thời cơ cho những thương hiệu uy tín nhận được sự quan tâm và xem xét lựa chọn của người tiêu dùng nhiều hơn. Đó là lý do Kirin không ngừng cải tiến và tung ra nhiều loại sản phẩm mới, ngay cả trong lúc thị trường đang rối ren như thế này.”
    Từng lao đao vì nghi án chất tạo đục độc hại DEHP, nhưng đến ngày 11.6.2011, công ty TNHH nước giải khát Kirin Việt Nam đã chính thức được giải thoát khỏi vòng nghi ngờ khi được sở Khoa học và công nghệ TP.HCM công bố kết quả kiểm tra DEHP các sản phẩm Nước bổ sung Ice+; Sữa trái cây Latte và Trà xanh KiRA đều không chứa chất độc hại nói trên.
    Dù thâm nhập vào thị trường giải khát Việt Nam khi ngành hàng này đã có không ít những “ông lớn” đang chiếm lĩnh vị trí quán quân, nhưng với 5 năm tham gia thị trường, Kirin Việt Nam đang dần khẳng định mình nhờ tạo ra sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh trên thị trường này.
    Nhờ ứng dụng 100% dây chuyền công nghệ Aseptic hiện đại nhất thế giới vào sản xuất, từ nguyên liệu đầu vào đến quá trình chiết rót, đóng chai đều diễn ra trong môi trường hoàn toàn vô trùng. Công nghệ Aseptic giúp sản phẩm đảm bảo an toàn về chất lượng và giữ được trọn vẹn hương vị thơm ngon và tinh chất của nguyên liệu thiên nhiên mà hoàn toàn không cần đến chất bảo quản. Toàn bộ quy trình sản xuất được vận hành và điều khiển bởi hệ thống máy tính kết nối toàn cầu, với sự hỗ trợ trực tiếp từ công ty mẹ tại Nhật Bản và các kĩ sư Nhật làm việc tại nhà máy. Đặc biệt, nguồn nguyên liệu luôn được các kĩ sư của Kirin Việt Nam kiểm tra chặt chẽ - để đảm bảo độ tươi ngon của từng sản phẩm.
    Trong thời đại đầy rẫy nghi hoặc như hiện nay, việc thông minh lựa chọn các thương hiệu uy tín, đã được kiểm chứng là vô cùng cần thiết. Kirin là một trong số đó. Với phương châm “Sáng tạo văn hóa uống nước mới tại Việt Nam”, Kirin luôn nỗ lực mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm tươi ngon và chất lượng nhất.

    Kiến trúc xanh
    Chữ xanh ở đây là xanh trong kiến trúc và xây dựng là làm nhà nhiều mảng xanh thoáng mát, tiết kiệm năng lượng. Nhưng không phải ai cũng hiểu như thế. vì thế mới phải đi tìm...
    Không ít ý kiến cũng khẳng định xu hướng sử dụng vật liệu sao cho xanh hơn, ít khí thải và nhiều khả năng tái chế thì mới xanh được. Thế nhưng mỗi ngày các khu đô thị mới, nhà mới vẫn mọc lên trên khắp các nẻo đường Việt Nam mà chẳng thấy “xanh” ở đâu, hay “xanh” vẫn như một khái niệm mang tính vẫy gọi ở thì tương lai, ngự trị trên các tham luận hội nghị và tuyên bố của các nhà khoa học mà thôi. Còn bản chất kiến trúc – đô thị mới ở Việt Nam hiện nay không xanh sao?

    Đa số cư dân ở độ tuổi trung niên đều gật gù hoài niệm kiểu: chỗ này hồi đó – lúc tui còn nhỏ – lúc ông bà già còn sống – lúc chưa mở đường – thì xanh lắm, nhiều cây cối, tha hồ dạo chơi, bây giờ đô thị hoá rồi thành ra… vậy đó!
    Đa số chủ đầu tư đều lên tiếng trách móc chuyện đô thị hoá theo kiểu “mấy ổng làm sao mà toàn là cao ốc mọc lên, khoảng xanh bớt đi”. Nhưng thực sự mỗi ngày tại các phòng quản lý xây dựng luôn xảy ra những cuộc cò kè năn nỉ ỉ ôi để làm sao nhà mình sắp xây tận dụng tối đa diện tích đất, để giảm khoảng lùi và tăng chiều cao tầng cho bằng được. Nghĩa là, chủ đầu tư không ngừng làm khó nhà chuyên môn mà nhìn kỹ thì chỉ ở mấy tỷ lệ khoảng trống, khoảng xanh phải chừa.
    Dĩ nhiên vẫn có một vài chủ đầu tư đã cố gắng để lại khoảng trống hít thở, đã hăm hở sử dụng năng lượng tiết kiệm (hoặc đăng ký đạt chuẩn cho công trình của mình là tiết kiệm năng lượng!)
    Dĩ nhiên, vẫn nhiều chủ đầu tư thuộc diện có “của ăn của để” nên làm nhà vườn vài trăm mét vuông trên đất vài ngàn mét vuông, và chữ xanh khi ấy được hiểu là về với thiên nhiên, là quay được lại thuở thuần phác dân dã, mặc dù khéo để ý thì thấy những cái hai cục vẫn gắn chi chít trên mặt sau ngôi nhà được tuyên bố là… mát lắm chả khi nào phải chạy máy lạnh cả!
    Dĩ nhiên, có còn hơn không, dù số lượng và hiệu quả mà những ngôi nhà xanh ấy – được hiểu theo nghĩa nhiều cây xanh và ít tốn điện – vẫn còn quá ít ỏi.

    Đi với người bạn trong tập đoàn điện lực dạo phố Sài Gòn những ngày cuối năm, bạn bảo Sài Gòn làm tốt việc thu vén dây điện rồi, chứ mình đi mấy nơi khác còn nhiều “mạng nhện” chi chít lắm. Tự nhiên thấy vui lạ, lắc tay bạn hỏi “thiệt không mày?”
    Đi với mấy nhiếp ảnh gia nước ngoài lang thang phố xá, họ bảo: các cửa tiệm lớn nhỏ ở khu trung tâm Sài Gòn cũng chịu trưng bày trồng cây, chịu trang trí gốc cây trước nhà nhỉ! Lại thầm cảm ơn các gia chủ mà mình không quen ấy. Dù biết Sài Gòn cũng chưa làm được gì nhiều đâu, nhưng không thể không nhìn nhận những điều bạn bè nơi khác ghé đến, so sánh tuy chỉ tương đối nhưng nhận xét là có thật. Người ta tính được 1m2 đất trống quanh một gốc cây không làm gờ chắn có thể ngấm được hơn 2,5m3 nước mưa.
    Nhưng sau mấy cái vui nho nhỏ ấy, bình tâm nhìn lại, chuyện xanh từ nhà ra phố vẫn đang được hiểu đơn giản là ráng thêm chút cây cối cho những bề mặt bêtông được dịu đi đôi chút! Cách hiểu đó chỉ khoanh vùng rất hẹp một mặt của vấn đề có nhiều mặt song hành này. Nếu chiếu theo tiêu chí về kiến trúc xanh (green building) mà hội đồng Công trình xanh Mỹ (UCRBC) đề ra thì green building hoàn toàn… không có chữ xanh nào cả, cụ thể là: quy hoạch địa điểm bền vững; bảo vệ nguồn nước và hiệu quả nguồn nước; hiệu quả năng lượng tái tạo; bảo tồn vật liệu và tài nguyên; chất lượng môi trường sống trong nhà.
    Nói cách khác, green building là tiêu chuẩn công trình được thiết kế và xây dựng để giảm hoặc loại bỏ tác động xấu của quá trình xây dựng và sử dụng lên môi trường và cư dân trên nhiều lĩnh vực. Vì thế, nhà xanh muốn thực hiện thì phải đặt vấn đề bắt đầu từ tầm vĩ mô, hay ít ra đi từ xa đến gần. Xem hết các tiêu chí kể trên thì thấy xứ mình hầu như chưa đáp ứng được bao nhiêu các tiêu chuẩn ấy, chỉ là những cố gắng đơn lẻ của từng nhà, từng khu, từng xóm mà thôi.
    Vậy có mấy chữ xanh?
    Hiểu đúng và có thái độ đúng sẽ tìm được lời giải cho công trình xanh ở xứ ta, ít ra ở những điểm cơ bản sau:
    - Xanh thuở xưa cha ông làm xuất phát từ cái khó ló cái khôn, từ tiết kiệm tận dụng, thành ra là trân trọng thiên nhiên, thành ra biết vay biết trả. Xanh thuở xưa đào đất đắp nền cũng là tạo ao nuôi cá, âm dương bù trừ không xâm hại đến mẹ thiên nhiên. Xanh ngày nay cũng phải học tâm thế cần – kiệm ấy. Chứ xanh mà hao tốn thì quả là… xanh mặt, dẫu thực tế đang chứng minh có tốn kém cũng phải làm, còn hơn phải trả giá vì môi trường xâm hại, vì chốn cư ngụ không an lành.
    - Xanh nhưng phải chín, không thể cái kiểu hái lúa non, vặt quả xanh chạy theo phong trào, là thấy người ta nói xanh thì mình học đòi xanh, đánh trống bỏ dùi vừa tháo biểu ngữ cổ động xuống là… đâu lại vào đấy. Làm nhà xanh như cha ông thuở trước là tạo ra của để dành chứ không phải đồ ăn liền hay ăn bớt ăn xén, lại càng không phải là của nợ, bắt người khác dọn, bắt đời sau con cháu gánh chịu, thì không ai chấp nhận nổi.
    - Xanh không đơn lẻ một hai nhà, vài ba con đường, mà là liên hoàn từ cống rãnh lên dây điện, từ chân bước liền đến mắt nhìn. Cứ mỗi khi có công trình di sản “được” trùng tu là ai nấy đều lo thắt ruột trước những bôi son tô phấn đỏ làm hại di tích hơn là bảo vệ di tích. Xanh xanh đỏ đỏ kiểu ấy khác gì… phá hoại.
    - Xanh phải tránh xáo trộn đời sống, tránh gượng ép. Ý thức cộng đồng một sớm một chiều chưa dễ thay đổi, nhưng không phải vô cảm trơ lỳ, khi xanh gắn được với quyền lợi của cư dân thì tự dưng có hiệu quả, có lan rộng mau chóng, hơn hẳn mấy tấm áp phích phất phơ, mấy chậu kiểng lăn lóc. Nhiều chuyên gia đô thị đã nhận định: chỉ cần giữ sạch môi trường là nâng cao chất lượng không gian sống lên rồi, nghĩa là xanh phải đi liền với sạch.
    - Xanh là thiệt tình chân chất, chứ đừng lấy tre bọc quanh lõi thép rồi hô hoán rằng biết dùng vật liệu tự nhiên, đừng làm nhà hộp kính bít bùng rồi phủ mái trồng cỏ cho có vẻ… xanh! Tóm lại, đừng xem xanh là cái mác thời thượng để bắt mối làm ăn, để ra khoe khoang với người ngoài, để đánh tráo khái niệm nhằm đạt các lợi ích riêng tư mà quên đi lợi ích cộng đồng.
    Xem ra có khá nhiều ngã đường đi đến ngôi nhà xanh, mà điểm xuất phát luôn từ những điều nhỏ nhặt. Bởi khi xây nhà chỉ cần gia chủ và các bên liên quan (thiết kế, thi công) lưu ý giải pháp cụ thể về kỹ thuật, về vật liệu sử dụng, về khoảng trống thông thoáng, chiếu sáng tự nhiên, về hệ thống kỹ thuật… là đã bắt đầu quá trình tương tác, tìm kiếm sự hài hoà với ngôi nhà rồi đó.