Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Sustainability strategy begins with 20/20 Vision


Why is it important to have a business strategy that has sustainability at its core? Because it can invoke passion and inspiration while benefiting the company financially. A shared vision, where sustainability is not a “project” but rather a philosophy that runs through every aspect of company culture, can capture hearts and minds while also increasing responsible growth of the triple bottom line.
When everyone is moving in the direction of a sustainable future, it’s easier to identify and capitalize on global trends. When companies view their overall business strategy through the lens of sustainability, near- and long-term issues like rapid urbanization, water shortages, constrained natural resources, changes in climate, modernization, mass connectivity and social unrest become challenges a company can help address, and opportunities for growth.
As Yogi Berra once said, “If you don’t know where you’re going, you’ll probably end up somewhere else.” This is true for sustainability planning, too — but with a sustainability vision infused throughout a company, there’s a clear focus, a roadmap, and a context for making operating decisions.
Not only that, but sustainability simply makes sense from a strategic business perspective. Some food for thought:
  • A 2011 study by MIT noted that sustainability is now a permanent part of 70 percent of corporate agendas.
  • According to a report by D S Simon Productions, "media initiatives with a corporate social responsibility focus generate 35-50 percent more positive media coverage on television, radio, web and social media than comparable programs without CSR.”
  • Social and environmental responsibility is also appreciated by investors: In the stock market, responsible assets rose more than 324 percent from 1995 to 2007, confirming growing interest in sustainability among investors.
So how does this type of ingrained, internalized, embraced sustainability start? It all starts with a vision. Some excellent examples of how a meaningful vision and mission creates powerful strategies are PepsiCo (NYSE: PEP), Layne Christensen (Nasdaq: LAYN), DuPont (NYSE: DD) and L'Oreal.

PepsiCo articulates it this way: "PepsiCo's responsibility is to continually improve all aspects of the world in which we operate - environment, social, economic - creating a better tomorrow than today." It put its vision into action through programs and a focus on environmental stewardship, activities to benefit society, and a commitment to build shareholder value by making PepsiCo a truly sustainable company.
An example of putting this into practice is its wildly successful Pepsi Refresh campaign. By garnering votes online, organizations can win grants. Since it started in 2009, more than $19 million in grants have been given to more than 1,000 local community projects, nonprofits and other groups, impacting more than 1.4 million people. And as often happens, a great additional benefit to Pepsi has been the massive wave of PR that has come with doing good. As of mid-2011, Pepsi had more than 76 million votes on their RefreshEverything.com site, and had chalked up over 3 billion online mentions.
Another example of putting this concept into action is at Layne, where its vision includes sustainability at its core: “To be the leading sustainable solutions provider to the world of essential natural resources -- water, minerals and energy. (Full disclosure: Layne is a BrownFlynn client.) As part of its overall business plan, Layne has a specific sustainability business plan that focuses sustainable efforts in detailed ways that support the business goals while also supporting environmental, social, and economic goals. Additionally, it highlights the importance of both tracking and continually improving. By establishing an organization structure, building measurement tools, engaging its workforce, and developing overarching strategies to help them measure progress, Layne’s employees are inspired to make progress towards their vision.
DuPont also focused squarely on sustainability as critical to all aspects of their business. Its vision statementis, “Our vision is to be the world’s most dynamic science company, creating sustainable solutions essential to a better, safer, healthier life for people everywhere.” How does it put that vision into action? DuPont lists safety, concern and care for people, protection of the environment and personal and corporate integrity as the company’s highest core values. Having this in place as a guide for making decisions has allowed DuPont to be named a Fortune Top 50 Most Admired Company, and number 19 on the Top 100 Best Corporate Citizens by Corporate Responsibility magazine.
At L’Oreal, sustainability is a source of inspiration: L’Oreal provides “access to products that enhance well-being, mobilising innovative strength to preserve the beauty of the planet and supporting local communities. These are exacting challenges, which are a source of inspiration and creativity for L’Oreal.” With this philosophy guiding them, they have designed some impressive programs like their Digital for All and Green Academies. Additionally, the company appreciates the value diversity brings to innovation, and has developed creative hiring programs to find the best talent available in multiple new markets where growth is accelerating.
An inspiring vision is a critical step in moving an organization to positive change and achieving long-term, responsible and sustainable growth. What’s your company’s vision? Does it lead the organization to an inspired sustainable future? If it does, we believe “shift happens!” Let us know in the comment below.
(Barbara O. Brown)

Chiến lược tiếp thị xanh của Singapore - Thành phố Vườn


Khi tập trung vào kinh tế tri thức, Singapore lại càng chú trọng tới môi trường để thu hút nhân tài.
url.jpg
Trong 25 năm qua, dân số Singapore đã tăng gấp đôi, đạt hơn 5 triệu người. Cũng trong khoảng thời gian đó, độ phủ cây xanh của Singapore từ chỗ chiếm 1/3 đã tăng lên đạt gần nửa tổng diện tích đất nước. Theo tờ The Economist, Singapore là thành phố đáng sống thứ 4 châu Á, sau Osaka, Tokyo và Hồng Kông.
Tuy nhiên, chính quyền nước này thấy vẫn còn chưa đủ. Họ đã vạch ra “Lộ trình xanh” cho 10 năm tiếp theo. Theo đó, Singapore từ chỗ “vườn trong phố” sẽ trở thành “phố trong vườn”. Có nghĩa cả đất nước này sẽ là một khu rừng xanh ngát và phố xá nằm bình yên trong khu rừng đó.
Để thực hiện chiến lược này, Singapore đã thành lập Quỹ Thành phố vườn, phát động các chương trình tình nguyện xanh để kêu gọi sự ủng hộ từ trường học, tổ chức và các tầng lớp dân cư. Singapore cũng tìm kiếm sự ủng hộ tài chính của các công ty tư nhân như HSBC, Exxon, Shell, Timberland.
Để không ngừng cạnh tranh trên trường quốc tế, nước này hiểu rằng họ phải chọn chiến lược phát triển bền vững. Chiến lược xanh “phố trong vườn” là minh chứng mới nhất cho quyết tâm đó.
Điều này thật sự là cần thiết. Nền kinh tế tri thức cần huy động ngày càng nhiều trí thức hơn nữa tới đây làm việc. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với nhân sự trong các ngành như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ mới. Những nhân lực cao cấp và đẳng cấp quốc tế cần một môi trường trong lành để làm việc và sinh sống.Quả vậy, do định hướng kinh tế ngày càng dựa nhiều hơn vào tri thức, Chính phủ Singapore nhận thức rõ cần phải thu hút thật nhiều nhân lực có tri thức cao về đây làm việc. Nhiều công ty đa quốc gia cũng cạnh tranh thu hút nhân tài bằng nhiều cách, trong đó có việc cung cấp môi trường làm việc trong lành và có lợi cho sức khỏe. Ý thức được sự cạnh tranh đó nên cho dù đã là một đất nước xanh và sạch, Singapore vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến lược xanh ở tầm cao hơn.
Singapore đã thực hiện chiến lược xanh này một cách rất kiên định và lâu dài. Ngay từ những ngày đầu hối hả phát triển kinh tế sau ngày độc lập, vào đầu những năm 1960, Chính quyền đã rất lưu ý tới vấn đề phát triển bền vững sinh thái. Cùng với xây dựng nhà cửa đường sá luôn là việc trồng thêm cây xanh.
Chính phủ Singapore luôn coi việc bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ chiến lược. Từ đó, đã có nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ, trong đó có các biện pháp pháp lý. Và gần đây khi tập trung vào kinh tế tri thức, nước này lại càng chú trọng tới môi trường để thu hút nhân tài.
“Trước nay chúng tôi chỉ lo trồng thật nhiều cây xanh. Nhưng giờ phải khác, chúng tôi phải mang cả hệ sinh thái đa dạng về đây, kể cả muông thú rừng xanh”, Poon Hong Yuen, Tổng Giám đốc Ủy ban Phát triển Công viên Quốc gia Singapore, cho biết.
Quyết là làm và làm rất nhanh. Singapore đã chuẩn bị để triển khai dự án “Khu vườn phía Nam” vào tháng 6.2012. Chính quyền hy vọng rằng, khu vườn rộng 101 ha này sẽ là thiên đường cho muông thú, cho cả cá hay chuồn chuồn. 
(Theo NYT)

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Marketing: Divergence vs. Convergence

Phân kỳ (divergence) và Tích hợp (convergence) là hai khái niệm gây nên nhiều tranh cãi bậc nhất trong giới marketing trên thế giới trong hai thập kỷ trở lại đây. Lý thuyết Phân kỳ bắt nguồn từ ý tưởng tất cả những sản phẩm dịch vụ cần thiết phải được chuyên biệt hóa. Ví dụ như ngành vận chuyển sẽ có sự phân kỳ thành máy bay, tàu hỏa, ô tô, xe máy, xe đạp. Trong từng nhánh nhỏ lại có sự phân kỳ tiếp theo: Xe máy phân chia thành xe phân khối lớn, xe ga v.v… Thuyết Phân kỳ cũng là nền tảng đế giới doanh nhân phân tích thị trường, tìm ra những ngách nhỏ trên thị trường để tung ra những sản phẩm ngách mang tính chuyên biệt. Ngược lại, lý thuyết Tích hợp đi theo hướng tạo nên những sản phẩm có khả năng tích hợp nhiều tính năng của những sản phẩm khác nhau. Ví dụ: Máy bay và tàu thủy tích hợp thành thủy phi cơ hoặc TV kết hợp với máy tính thành internet TV v.v…
Cuộc chiến lý thuyết
Tham gia cuộc chiến giữa Phân kỳ và Tích hợp là những tên tuổi lừng lẫy của thế giới marketing. Nhắc đến phe Phân kỳ, ta có thể kể đến cái tên huyền thoại Al Ries. Tư tưởng Phân kỳ của ông trong những cuốn sách best seller về marketing như “The 22 Immutable laws of Marketing – 22 Quy luật tất yếu trong Marketing”, “Positioning: Battle for your mind Định vị: Cuộc chiến tâm trí”.
Al Ries còn có sự cổ vũ của Jack Trout, một nhà chiến lược marketing danh tiếng và là đồng tác giả với ông trong nhiều đầu sách marketing khác. Laura Ries, con gái của Al Ries, ngôi sao mới nổi sáng chói bậc nhất của làng marketing thế giới cũng là một tín đồ của lý thuyết Phân kỳ. Là người đứng đầu phe Phân kỳ, Al Ries còn được những người trong giới marketing đặt cho biệt hiệu “Ông vua định vị”.
Trong khi đó, dường như phe Tích hợp còn thiếu một nhà lãnh đạo tầm cỡ. Lý thuyết Tích hợp có sự tham gia gián tiếp của “cha đẻ marketing hiện đại” Philip Kohler. Sở dĩ nói là “gián tiếp” bởi vì Kohler chỉ đề cập đến những ý tưởng về tích hợp sản phẩm trong cuốn sách “Winning at Innovation: The A-F Model – Chiến thắng với Cải tiến: Mô hình A-F” và rải rác trong cuốn sách “Marketing Insights From A to Z – Thấu Marketing thị từ A đến Z”.
Mặt khác, phải thừa nhận rằng trên nhiều phương diện, những tác gia khác theo phe Tích hợp đều không có được sự sắc sảo và thông minh như Al Ries, khả năng hùng biện của Jack Trout, sự mới mẻ của Laura Ries… để có thể biểu dương lý thuyết Tích hợp một cách mạnh mẽ.

Dẫu sao, những cú va đập giữa Phân kỳ và Tích hợp đã tạo nên hàng loạt cuộc tranh luận lớn trong giới marketing. Mỗi phe đều có những dẫn chứng, những lập luận nhằm củng cố cho niềm tin của mình, tạo nên hàng loạt ý tưởng mang tính cách mạng trong lĩnh vực kinh doanh.
Phân kỳ?...
Lợi thế trong cuộc chiến “Phân kỳ” và “Định vị” trong những năm gần đây có vẻ nghiêng về phe Phân kỳ.
Thứ nhất: Al Ries đã có hàng loạt bài viết đanh thép cho ý tưởng Phân kỳ trên tờ tạp chí marketing hàng đầu thế giới Advertising Age. Trong khi đó, Philip Kohler ít có những bài viết mang tính báo chí hơn. Vả lại, khi viết bài đăng báo, mối quan tâm của Kohler thường rộng và ít có tính trực diện như các bài viết của Al Ries.
Thứ hai: Al Ries và Laura Ries là những người sáng lập ra Công ty Ries & Ries, một công ty tư vấn về chiến lược marketing hàng đầu trên thế giới hiện nay. Trong khi đó, Philip Kohler dù được coi là “nhà hiền triết của marketing hiện đại” nhưng ông thường được nhìn nhận với vai trò là một nhà lý thuyết marketing hơn. Đương nhiên, những người có đầu óc thực tế sẽ có phần nghiêng về những ý tưởng của Al Ries nhiều hơn.
Thực tế đã cho thấy, phe Phân kỳ liên tục giành được ưu thế lớn. Sự phản kháng của những người theo phe Tích hợp là khá yếu ớt. Trong một bài viết nổi tiếng có tên: “Darwin’s Theories applied to Marketing - Lý thuyết Darwin áp dụng vào Marketing”, Al Ries đã thực sự nâng tầm Phân kỳ trở thành một lý thuyết đầy tin cậy trong lĩnh vực marketing. Ông lập luận: “Thuyết tiến hóa cho thấy luôn luôn có sự phân nhánh và điều này cũng đúng trong kinh doanh”. Kèm theo bài viết, ông đưa ra hàng loạt những dẫn chứng đanh thép cho lý thuyết của mình.
Tuy nhiên, khi Al Ries áp dụng “thuyết tiến hóa” của Darwin vào lý thuyết marketing của mình, có lẽ ông đã quên đi một khía cạnh: Đó là “thuyết tiến hóa” là một lý thuyết không hoàn thiện với vô số lỗ hổng không thể nào lấp đầy được. Chính vì thế, lý thuyết Phân kỳ của Al Ries cũng mang trong mình nhiều mâu thuẫn. Trên thực tế, rất nhiều sản phẩm không hề phân kỳ như lý thuyết của Al Ries mà đi ngược lại theo hướng tích hợp. Điều đáng nói, những sản phẩm đó vẫn gặt hái những thành công vang dội.


…hay Tích hợp?

Một trong những tiên đoán nổi tiếng nhất của Al Ries chính là bài viết: “Tại sao iPhone sẽ thất bại – Why the iPhone Will Fail” viết năm 2007. Với viện dẫn của hàng loạt sản phẩm tích hợp đã thất bại ra sao, Al Ries khẳng định: “Tôi nghĩ iPhone sẽ là một nỗi thất vọng lớn. iPhone là một sản phẩm tích hợp, và trong lĩnh vực công nghệ, sản phẩm tích hợp luôn đi kèm cùng những thất bại vĩ đại như máy tính – điện thoại của AT&T, TV Internet của Microsoft v.v… Bạn biết đấy: Ý tưởng tích hợp luôn nghe hợp lý nhưng chúng không thành công trong cuộc sống thực”.
Tuy nhiên, lần này, có lẽ Al Ries đã đi quá xa với lý thuyết Phân kỳ. Một số sản phẩm tích hợp không thành công không có nghĩa là nhu cầu về những sản phẩm mang tính tích hợp của con người không tồn tại. Điều quan trọng trong bất cứ lý thuyết marketing nào, đó là sản phẩm nào đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, sản phẩm đó sẽ có khả năng phát triển, bất kể sản phẩm đó là sản phẩm phân kỳ hay tích hợp.

Thực ra, tiên đoán về sự thất bại của sản phẩm tích hợp - iPhone của những người theo lý thuyết Phân kỳ chỉ là giọt nước làm tràn ly. Trước đó, hàng loạt sự kết hợp mang tính tích hợp đã được người tiêu dùng đón nhận trước cả iPhone. Ví dụ như trước đây, máy ảnh là máy ảnh, máy quay phim là máy quay phim. Tuy nhiên, sản phẩm máy ảnh có tính năng quay phim là một điều hết sức hiển nhiên trong đời sống hiện đại.
Một ví dụ khác dễ thấy nữa, đó chính là sản phẩm điện thoại di động. Ban đầu, điện thoại di động chỉ dùng để nghe, gọi. Sau đó nó tích hợp thêm tính năng nhắn tin của máy nhắn tin. Rồi nó lại tích hợp thêm tính năng chụp ảnh, nghe nhạc, quay phim, gửi email. Có lẽ chẳng sản phẩm nào có thể mang tính tích hợp lớn đến vậy. Và nó đã thất bại? Không hề!

Ngược lại, điện thoại tích hợp nhiều tính năng đang ngày càng phát triển và nó đã trở thành một xu thế lớn bậc nhất trên thế giới trong thập kỷ qua.
Xu hướng tích hợp không chỉ nằm trong ngành công nghệ cao. Trong lĩnh vực dịch vụ, xu hướng này cũng đang phát triển mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ du lịch – nhà hàng – khách sạn.
Để đáp ứng nhu cầu của con người, những sản phẩm mang đậm tính tích hợp trong ngành này đã ra đời: resort kết hợp với casino, khu resort kết hợp với các công viên chủ đề (theme park) như khu Sentosa tại Singapore, The Palm Jumeirah tại Dubai v.v…
Và khi iPad, một sản phẩm mang đầy đủ tất cả những yếu tố tích hợp ra đời với những thành công rực rỡ, nó đã thực sự trở thành một cú đấm khiến những lý thuyết gia Phân kỳ choáng váng.
Thành công của những sản phẩm tích hợp như iPhone và iPad đã đưa Apple trở thành công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất trong lịch sử nhân loại, đồng thời, cổ phiếu Apple cũng đã trở thành một trong những cổ phiếu có mức giá lớn nhất trong lịch sử chứng khoán Mỹ.
Người tiêu dùng còn đang chờ đợi sản phẩm iTV của Apple. Liệu rằng đó sẽ là một nhát búa quyết định làm lung lay đến tận gốc rễ của lý thuyết Phân kỳ?
“Phân kỳ” và “Tích hợp” là mâu thuẫn lớn nhất về mặt nhận thức của những người làm marketing hiện đại. Trong khi những nhà lý thuyết marketing lục tìm những trào lưu trong quá khứ, soi xét thành bại của từng thương hiệu để củng cố cho lập luận của mình thì những sản phẩm mang tính phân kỳ hay tích hợp đều tự tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường. Đơn giản, vì những sản phẩm tập trung đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.

DNSG

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Green Marketing Trends 2012 - Xu hướng Tiếp Thị Xanh 2012

Claire Easley the senior editor at Builder recently published an article about Jerry Yudelson impressions for the green building industry in 2012. Yudelson has more than 25 years of work in sustainability, he has been a member of the U.S. Green Building Council’s board of directors, a LEED national faculty member, and is the co-founder and director of the Green Building Service consulting unit at Portland General Electric. Last year, Wired magazine dubbed him "the godfather of green."

So what does the industry insider have to say about where things are going? "The construction industry is going to have modest growth this year," Yudelson said Tuesday January 17th in a webinar on GreenExpo365. "It seems that most people have figured out that the sky isn’t going to fall in and they are going to get back to doing business … but with an emphasis on what I call ‘frugal green.’ In the past there was a feeling that you could spend money to add green features. I think today the real challenge for construction and design professionals is ‘How do I do this on the same budget?’ and I think that’s the core trend."

As stated by Yudelson, the emphasis on frugality is actually a market driver for green building. "You make money if you go green. If you don’t go green, you’re at a marketplace disadvantage."

Yudelson also shared a list of 10 green trends in green building for 2012, five trends for the US and five trends that are global:

U.S. Trends

1. Green Building Growth to Rebound
LEED project growth was slow in 2011, only gaining 3% for the year. But while LEED certification on new projects may take longer to gain much steam, the program’s retrofitting arm, LEED for Existing Buildings: Operations & Maintenance (LEED-EBOM), is quickly gaining traction. EBOM project registrations were up 18% last year, and the EBOM project area exceeded the cumulative LEED-NC (New Construction) area for the first time, with 675 million square feet of EBOM versus 649 million square feet of NC. "That trend will continue this year," Yudelson says, as more property owners realize that retrofitting to LEED standards is fairly painless when starting with a building that is already Energy Star–rated.

2. Federal Momentum Has Slowed

The Department of Defense recently stipulated that projects can’t spend any extra money on energy program certification, and while "that’s not necessarily a killer," Yudelson says, "it is an indication that there is some backlash for spending extra money on anything." Getting federal funding for green projects will be harder going forward, he says, especially given the recent Solandra scandal and the federal budget crunch. But while state and local governments aren’t faring much better, that’s where the action will be, he says, as existing buildings will need to be upgraded, projects in the pipeline will move forward, and schools—which are funded by bonds—will need to be built.

3. LEED-EBOM Will Gain Momentum
"We’re going to see this move to other sectors," he says, particularly among hotels with strong convention and meeting businesses who want to be able to market their eco-friendliness. Grocery stores, hospitals, and retail centers are moving in the same direction, with features such as solar panels on top of Walmarts or department stores. "Last month, President Obama and former President Clinton announced the Better Buildings Initiative. It’s only $4 billion, so it’s not huge. But still, this is stuff that moves markets. When you have two presidents pushing something, it does get people’s attention. More and more building owners are realizing that they don’t want to be late to the party."

4. Water Issues Grow in Importance

"Even the water-wet areas have water problems brought on by infrastructure problems and population growth," Yudelson says. "Florida doesn’t have a place for a reservoir in the entire state, so even if you have a slight drought, you have big problems." He predicts rainwater capture systems as well as graywater and blackwater on-site treatment capabilities will become more pervasive. "Instead of toilet to tap, we’re going toilet to toilet."

5. Zero-Net-Energy to Gain Traction

"Zero-net-energy needs to be in your future," Yudelson says, adding that it works best on two- to four-story buildings that only use between 30 and 35 kBTU per square foot per year. "If you do a good job with integrated design, you can reach that [30 to 35 kBTU] goal," he says, adding that getting to net-zero should only add between 3% and 5% to building costs.

Global Trends

6. Green Building Movement Will Continue to Grow

There are currently more than 90 national Green Building Councils throughout the world, and LEED projects have been registered in 161 countries, Yudelson says. Last year, 44% of total LEED registrations were outside the U.S. "This is a movement that you have to pay attention to," he says, adding that the "Big Three" energy rating systems—LEED, BREEAM, and Green Star—are already converging toward common carbon metrics and common rating concerns.

7. Performance Disclosure
Already popular in the European Union and Australia, requirements for buildings to disclose their energy use are gaining traction in the U.S. Beginning April 1 of this year, Seattle will require buildings of more than 10,000 square feet to disclose energy usage, and California will begin requiring disclosures starting next year, which Yudelson says will have a market impact, since prospective tenants will be able to compare what their energy costs will be between buildings. "This is going to happen everywhere, particularly in big cities, because it’s the easiest move to take politically. It doesn’t say you have to retrofit the building. It just says you have to disclose."

8. Global Carbon Ratings

Carbon ratings that remain standard across countries are of particular interest to global property management companies. "If your company is committed to sustainability, you’re going to have to report this," he says. It’s also an issue for property investments tied to pension funds. "Anyone that has sustainable interests and wants access to capital will have to deal with this," he says.

9. Solar Power Stalls

"Solar power is kind of slowing down," mostly due to the costs involved, Yudelson says, adding that focus is shifting instead to energy efficiency. "Solar is still happening. Lots of people like solar … because it’s visible and people want to see something for their money." However, for those building new construction today, he suggests that the most responsible move would be to make it "PV ready," so that as solar becomes more cost effective, it will be cheap and easy to install.

10. Building Management Goes Into the Cloud
As buildings get more complex, Yudelson says, "we’re seeing the need for software that allows us to manage buildings out of the cloud." Thanks to wireless sensors and controls, it’s getting increasingly easier to better direct building managers and maintenance people to locate and fix problems, and to do so remotely.
Richard Matthews
Global Elite Consulting Corporation

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Đánh thuế túi nylon không thân thiện môi trường - Băn khoăn trước giờ thực hiện


Chỉ còn vài tháng nữa, Luật Thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực (ngày 1-1-2012). Theo luật này, túi nylon không thân thiện môi trường sẽ phải chịu thuế bảo vệ môi trường. Nhiều chuyên gia về môi trường cho rằng đây là một quyết định đúng đắn, song thực hiện ra sao để luật thực sự giúp hạn chế việc sử dụng túi nylon vẫn là vấn đề gây tranh cãi.
Chưa có tiêu chí
Mặc dù đã hơn 1 năm nay tháng nào cũng xuất khẩu từ 1-2 container sản phẩm bao bì tự hủy qua Mỹ, Canada và Australia, song sản phẩm của Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ Phúc Lê Gia vẫn chưa được “chính danh” ở thị trường trong nước. Giám đốc Công ty Lê Lộc cho biết, vấn đề là các bộ ngành liên quan chưa có tiêu chí cụ thể cho loại sản phẩm này nên thị trường trong nước chưa biết gọi tên gì cho đúng bản chất của chúng. Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ Phúc Lê Gia cùng nhiều doanh nghiệp (DN) sản xuất loại bao bì đã từng kiến nghị bức xúc này lên cấp thẩm quyền và trong khả năng của mình, nhiều bộ ngành cũng đã nhiệt tình hướng dẫn các DN chủ động xây dựng và đăng ký chất lượng sản phẩm với các cơ quan quản lý chuyên ngành.
Giao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm về sản phẩm cho DN trong khuôn khổ pháp luật là một hướng đi linh hoạt, sáng tạo và đúng đắn. Thế nhưng, có lẽ do chưa tính toán kỹ nên chủ trương này đã “đụng” Luật Thuế bảo vệ môi trường. Khoản 3, Điều 2 Nghị định 67/2011 triển khai thi hành Luật Thuế bảo vệ môi trường quy định: những túi nylon đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường theo quy định của Bộ TN-MT được miễn đóng thuế.
Tiến sĩ Lê Văn Khoa, Giám đốc Quỹ Tái chế TPHCM, cho biết: Bộ TN-MT chưa có tiêu chí này nên chẳng biết căn cứ vào đâu để xác định túi nylon thân thiện với môi trường? Chưa hết, về nguyên tắc Bộ TN-MT không có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn chất lượng mà đây là trách nhiệm của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng thuộc Bộ Khoa học Công nghệ. Từ nay đến khi Luật Thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực, liệu Bộ TN-MT có kịp làm việc với Bộ Khoa học Công nghệ để ban hành bộ tiêu chí như quy định? Việc này đang là nỗi bức xúc rất lớn đối với các DN sản xuất túi nylon thân thiện với môi trường. Nhất là khi chi phí để sản xuất các sản phẩm ấy thường cao hơn chi phí sản xuất túi nylon thường nhiều lần. DN rất cần sự hỗ trợ bằng cơ chế chính sách của nhà nước để sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Đánh thuế: Chưa đủ
PGS-TS Phùng Chí Sỹ, Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường, cho rằng đánh thuế cho các sản phẩm túi nylon không thân thiện với môi trường là quyết định đúng. Tuy nhiên, ông vẫn băn khoăn trước sự tiện dụng của loại túi này và giá thành dù đã được đánh thuế nhưng vẫn còn khá rẻ. Hiện nay, giá 1kg túi nylon tùy loại chỉ khoảng vài chục ngàn đồng. Dù có chịu thuế, giá 1kg cũng chỉ hơn 100.000 đồng. Mức giá này là không cao đối với nhiều người, nhiều DN. Do vậy, quan điểm của ông Phùng Chí Sỹ là: Bên cạnh việc đánh thuế bảo vệ môi trường đối với túi nylon không thân thiện môi trường, nhà nước vẫn cần có thêm nhiều cơ chế khuyến khích DN tìm tòi, đầu tư, sản xuất ra nhiều hơn nữa các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đặc biệt, đối với người dân, công tác tuyên truyền, vận động không sử dụng túi nylon không thân thiện với môi trường phải được tiến hành thường xuyên, lâu dài.
Ngoài lý do giá túi nylon dù đánh thuế vẫn còn khá rẻ, không loại trừ khả năng nếu người dân vẫn còn thói quen sử dụng túi nylon không thân thiện môi trường, các nhà cung cấp sẽ tìm cách đưa thuế môi trường mà đáng lẽ họ phải chịu vào trong giá bán hàng. Người mua hàng sẽ trở thành người phải chịu thuế và như vậy mục tiêu giảm sản xuất, tiêu thụ túi nylon không thân thiện với môi trường của nhà nước không đạt được kết quả như mong muốn.

Nhựa là một chất bền vững trong môi trường. Bao bì nhựa trong điều kiện tự nhiên mất khoảng 400 năm để phân hủy hoàn toàn. Tuy nhiên khi thải ra môi trường nhựa gây tác động xấu tới các nguồn nước như gây cản trở lưu thông, mất thẩm mỹ và gây tắc nghẽn các công trình thủy lợi, trạm bơm nước...
– Việc xuất hiện túi nhựa với khối lượng lớn trong đất, đặc biệt những khu vực có trồng cây sẽ làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cây do hệ thống màng bao của túi quấn vào các điểm hấp thụ trong hệ rễ cây, nếu túi nylon xuất hiện trong rác thải tại bãi chôn lấp sẽ làm giảm hiệu quả của các quá trình xử lý.
– Những khối lượng túi nhựa không được xử lý triệt để ngoài tự nhiên sẽ là môi trường rất tốt cho các loại vi sinh vật độc hại phát triển.
Hiện nay trên địa bàn TPHCM có hơn 10.000 cơ sở tư nhân sản xuất bao bì nhựa, túi nylon hoạt động. Trong khi đó, tổng số lượng cơ sở sản xuất bao bì giấy hoặc các loại túi đựng làm từ chất liệu khác được sử dụng nhiều lần chưa bằng 1/5 số lượng cơ sở sản xuất túi nhựa.
– Mỗi ngày, ở TPHCM có hơn 120 tấn bao bì các loại được tiêu thụ cho tất cả các mục đích sử dụng như đóng gói hàng hóa, chứa sản phẩm, chứa rác hay các yêu cầu đặc biệt cho các lĩnh vực khác như nông nghiệp, y tế…
– Trong khối lượng bao bì đáng kể nêu trên, bao bì làm từ chất dẻo (plastic) chiếm phần lớn (hơn 60% sản lượng tiêu thụ, tức khoảng gần 80 tấn/ngày). Ngoài ra còn một số loại bao bì khác cũng được sử dụng tuy không được phổ biến bằng, đó là túi giấy hoặc các loại túi, bao bì được sử dụng nhiều lần.
Nguồn: Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường.
Luật Thuế bảo vệ môi trường– Khoản 4, Điều 3: Túi nylon thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường.
– Điều 8: Mức thuế đối với túi nylon thuộc loại chịu thuế là 30.000 - 50.000 đồng/kg.
Nghị định số 67/2011/NĐ-CP
– Khoản 3, Điều 2: Đối với túi nylon thuộc loại chịu thuế (túi nhựa) là loại túi, bao bì nhựa mỏng làm từ màng nhựa đơn HDPE, LDPE hoặc LLDPE (Linear low density polyethylene resin), trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hóa và túi nylon đáp ứng tiêu chí thân thiện môi trường theo quy định của Bộ TN-MT.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Hướng tới tiêu dùng xanh: Chiếc túi thân thiện với môi trường

Môi trường đất, nước, không khí của chúng ta đang bị hủy hoại dần bởi một thủ phạm đó là túi nilon. Hãy chuyển sang sử dụng các vật liệu khác thân thiện với môi trường hơn như túi mua hàng sử dụng nhiều lần, có thể tái chế hay là túi tự phân hủy sinh học để duy trì màu xanh của trái đất, của chính môi trường chúng ta.
Đó là thông điệp mà nhóm ba bạn Phùng Thị Thu Hà, Đỗ Thu Thủy và Phạm Thị Thủy (Green Consumer), sinh viên Khoa Quản trị kinh doanh - K44, trường Đại học Ngoại Thương gửi đến Cuộc thi Môi trường và Phát triển do Bộ TN&MT phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức với mục đích nâng cao ý thức và ứng xử thân thiện với môi trường của mỗi người dân nói riêng và cộng đồng nói chung. Với ý tưởng thành lập Công ty TNHH Green Consumer chuyên sản xuất và phân phối các dòng sản phẩm thân thiện với môi trường, đó là túi mua hàng thân thiện môi trường (túi Envi) và túi tự phân hủy sinh học, các bạn đã đạt giải ba Cuộc thi. Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đổi với nhóm Fly High.
PV: Xuất phát từ ý tưởng nào mà các bạn xây dựng Dự án Túi thân thiện với môi trường?
Ý tưởng thành lập Công ty với dự án Túi thân thiện với Môi trường đã được nhóm bắt đầu viết khi tham gia cuộc thi “Nhà doanh nghiệp HSBC” – “HSBC Young Entrepreneur Award 2008” (HSBC YEA). Bản tóm tắt dự án của nhóm khi tham gia HSBC YEA đã được giải nhì toàn quốc. Sau đó, thông qua báo điện tử, nhóm biết đến Cuộc thi Môi trường và Phát triển nên đã quyết định tiếp tục hoàn thiện nội dung dự án để tham gia Cuộc thi với một mong ước dự án sẽ được nhiều người hoạt động trong lĩnh vực môi trường quan tâm, góp phần đưa dự án vào triển khai trong thực tế.
PV: Các bạn có thể giới thiệu rõ hơn về sản phẩm của mình và ích lợi của nó đối với môi trường của chúng ta ?
Trong dự án, nhóm đưa ra 2 dòng sản phẩm chính. Đó là túi Envi - sản phẩm do nhóm thiết kế và sáng tạo, có các bánh xe làm giảm sức nặng của đồ, giúp công việc nội trợ trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng hơn. Kích thước của túi phù hợp để có thể mua và đựng được một lượng lớn thức ăn trong một lần đi chợ. Túi chia thành nhiều ngăn làm giảm tối đa lượng túi nilon trong mỗi lần đi chợ, đảm bảo vệ sinh vì đồ ăn không bị chồng chéo lên nhau. Đặc biệt, chất liệu của túi Envi gồm có: giỏ lưới khung làm bằng inox rỗng; hệ thống khay làm bằng nhựa chất lượng cao có thể tái chế 85% thân thiện với môi trường; lớp bao bọc bên ngoài làm bằng vải bao bố có tráng một lớp nhựa mỏng bên trong để có thể dễ dàng vệ sinh. Ngoài ra, túi Envi dành cho người nội trợ được nhóm thiết kế dựa trên những túi kéo được bày bán tại các siêu thị trên cả nước đáp ứng nhu cầu thời trang, thẩm mỹ của khách hàng.
Sản phẩm thứ hai là túi tự phân hủy sinh học có khả năng tự phân hủy từ 6 tháng đến 1 năm so với túi nilon bình thường là hàng nghìn năm, góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm tiền nhà nước trong việc tái chế, xử lý rác thải túi nilon. Được sản xuất kết hợp với các chất phụ gia như tinh bột sắn, ngô, ion Mangan 2+... nên khi bị phân huỷ, sản phẩm sẽ chuyển hóa thành các chất mùn, các dạng thức ăn nuôi dưỡng vi sinh vật trong đất, làm giàu cho đất.
PV: Trong quá trình thu thập tài liệu viết về Dự án, các bạn có gặp những thuận lợi và khó khăn gì không?
Dự án với mong muốn chính là giảm thiểu thậm chí thay thế hoàn toàn thói quen sử dụng túi nilon của người tiêu dùng để góp phần bảo vệ môi trường nên đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ và khích lệ của các cá nhân tâm huyết quan tâm đến môi trường như Tiến sĩ Phạm Ngọc Lân – Giám đốc phòng thí nghiệm trọng điểm Polyme và Compozit thuộc trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thắng – Phó chánh văn phòng Phát triển bền vững - Bộ Kế hoạch Đầu tư và các nhân viên tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)... Đặc biệt, thông qua những buổi nói chuyện, phỏng vấn với Tiến sĩ Phạm Ngọc Lân, nhóm chúng tôi đã có thêm thôngtin chính xác về hạt tiền phân hủy- thành tố chính tạo nên túi tự phân hủy sinh học, hiện đang được phát triển ở Việt Nam do chính tiến sĩ làm giám đốc dự án.
Bên cạnh đó, nhóm cũng gặp một số khó khăn như tài liệu tiếng Việt về túi tự phân hủy sinh học rất hiếm, hầu như không có, chủ yếu là tài liệu tiếng nước ngoài. Ví dụ như chúng tôi đã đến Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng để xây dựng quy chuẩn về sản phẩm của Công ty song sản phẩm tự phân hủy sinh học còn mới mẻ ở Việt Nam mới nên không có tiêu chuẩn chất lượng. Chúng tôi đã đến thăm một vài xưởng sản xuất và nhận được không ít lời từ chối hợp tác, đặc biệt là từ các xưởng sản xuất nhỏ, có lẽ do họ cũng nhận thức được việc sản xuất túi nilon không đảm bảo vệ sinh, an toàn và ảnh hưởng đến môi trường. Riêng đối với sản phẩm túi Envi do nhóm tự nghĩ và thiết kế nên thông tin về việc sản xuất túi gặp nhiều khó khăn do là sản phẩm mới trên thị trường.
Hơn nữa, để đưa ra những thông tin cụ thể, chính xác về sản phẩm của mình nhằm thuyết phục hội đồng chấm thi, chúng tôi đã phải đi thực tế nhiều và đôi khi không nhận được sự hợp tác của một vài cá nhân và tổ chức.
PV: Tất cả các sản phẩm do các bạn thiết kế đều mới dừng ở lý thuyết, vậy sau khi rời giảng đường đại học, các bạn có ý định tiếp tục triển khai ý tưởng của mình trong thực tiễn hay không? Nếu tiếp tục các bạn sẽ dự định vào thời gian nào?
Dòng sản phẩm túi tự phân hủy sinh học nhóm đưa ra tuy khá mới mẻ tại Việt Nam song không phải là không có. Hiện tại đang có rất nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam sản xuất túi tự phân hủy sinh học nhằm phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Song giá thành túi này còn khá cao so với túi nilong nên sức cạnh tranh còn yếu. Nhóm đã khắc phục được điểm yếu về giá thành của túi bằng nhiều giải pháp đã được chứng minh là khả thi như cho in quảng cáo trên túi, tặng hoa hồng cho các đại lý bán hàng lớn hơn hoa hồng túi nilon... Do vậy, nếu sản phẩm túi tự phân hủy sinh học của nhóm được sản xuất ra thị trường với giá thành bằng giá túi nilong trong khi đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và môi trường, nhóm tin chắc rằng sản phẩm sẽ đem lại thành công và hoàn toàn có thể thay thế túi nilon. Túi Envi được thiết kế với nhiều tính năng hơn và đặc biệt là góp phần giảm thiểu túi nilong nên nhóm chắc chắn rằng, đây là một sản phẩm khả thi, không hề phi thực tế và hoàn toàn có thể đưa vào sản xuất sau khi được thẩm tra chất lượng.
Trong tương lai, nhóm chúng tôi có ý định trước tiên sẽ đi bảo hộ trí tuệ ý tưởng sản phẩm và sau đó sẽ đưa lên sàn giao dịch ý tưởng. Với một dự án lớn như vậy, cần nhiều về nguồn lực thì nhóm chúng tôi chưa đủ điều kiện để thực hiện. Song, nhóm cũng mong rằng thông qua cuộc thi Môi trường và Phát triển, sẽ có nhiều cá nhân, tập thể quan tâm đến dự án của nhóm và đầu tư đưa dự án vào triển khai trong thực tế, đem lại những lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng, xã hội và môi trường.
PV: Xin cám ơn các bạn về cuộc trao đổi
(Ảnh: Thứ tự từ trái qua phải: Đỗ Thu Thủy – Phạm Thị Thủy – Phùng Thị Thu Hà)

Green Marketing - Túi nylon - Cần có một cuộc cách mạng

Túi nylon được biết đến như một vật hết sức tiện lợi trong đời sống sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên, đây lại là một loại rác thải cực kỳ nguy hiểm cho môi trường. Thế mà, chỉ riêng TP.HCM, mỗi ngày phải hứng chịu khoảng trên 30 tấn rác thải là túi nylon.

Cứ mỗi sáng, bà Nguyễn Thị Thanh ngụ ở quận 4, TP.HCM đều đi chợ. Mỗi loại thực phẩm bà mua đều được người bán bỏ vào 1 túi nylon. Sự tiện lợi thấy rõ, vì mỗi thứ mỗi túi, không lẫn lộn với nhau. Cứ thế, có hôm bà mang về hàng chục túi nylon. Bà Thanh cho nói: "Thấy nó cũng tiện lợi, sạch sẽ, mình xài xong thì bỏ".

Không chỉ bà Thanh, mà gần như tất cả mọi người đều thấy được sự tiện lợi này. Vì thế, ai ai cũng dùng túi nylon để chứa đựng bất cứ thứ gì có thể. Hầu hết các siêu thị, các chợ, trung tâm thương mại, các cửa hàng bách hóa, shop thời trang... đều sử dụng túi nylon. Túi nylon còn được mọi người sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.

Theo kết quả khảo sát thực tế của Quỹ tái chế TP.HCM, tình trạng sử dụng túi nylon trong cộng đồng hiện rất cao. Có đến 93% người dân khi đi mua hàng không mang theo túi đựng vì chắc chắn rằng người bán sẽ cung cấp. Những người này cho rằng mang theo túi đi mua hàng sẽ khá bất tiện. Mặt khác, có đến 28% người dân vứt ngay túi nylon sau khi mua hàng về, một số người khác giữ lại những túi còn sạch để đựng rác.

Hiểm họa khó lường

Việc sử dụg túi nylon tràn lan dẫn đến hậu quả là môi trường đang chịu sự tác động rất lớn của loại rác thải nguy hiểm này. Chỉ tính riêng địa bàn TP.HCM, mỗi ngày, môi trường nơi đây phải hứng chịu khoảng trên 30 tấn túi nylon. Trong đó khu vực phát sinh nhiều nhất là chợ chiếm 70%, kế đến là siêu thị 25% và cuối cùng là trung tâm thương mại 3%. 30 tấn không phải là con số lớn, nhưng nylon có trọng lượng rất nhẹ, do vậy nếu xét về tiết diện, thì 30 tấn nylon này chiếm một không gian quá lớn.

Có một chi tiết rất nguy hiểm từ túi nylon mà cộng đồng có thể chưa biết hoặc đã biết nhưng chưa có ý định thay đổi cách sử dụng tiện lợi nói trên. Đó là trong môi trường đất, phải mất khoảng 400 năm, túi nylon mới tự phân hủy.

Tiến sĩ Lê Văn Khoa, Giám đốc Quỹ tái chế TP.HCM cho biết: "Túi nylon sử dụng tràn lan hiện nay chính là hiểm họa của môi trường. Do trọng lượng nhẹ, nên nó vương vãi khắp nơi, rồi khi ra tới bãi rác thì nó làm cho vi sinh trong rác khó phân hủy, ngăn quá trình thẩm thấu nước ngầm. Mặt khác, túi nylon lơ lửng trong nguồn nước sẽ vướng vào chân vịt của các loại ghe tàu...".

Nếu không giải quyết thực trạng này, hàng loạt vấn đề về môi trường, môi sinh, cảnh quan… sẽ đồng loạt xảy ra. Dễ nhận thấy nhất là những mảng rác túi nylon rất lớn tích tụ trên các con sông, kênh thoát nước nội ô… làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước, gây ngập mỗi khi trời mưa. Túi nylon lẫn trong đất sẽ phá hủy hệ thống đất nông nghiệp, gia tăng thể tích bãi rác, cản trở sự phân hủy của rác, tăng chi phí ngân sách trong xử lý rác…

Đó là chưa kể, trong quá trình xử lý bằng phương pháp đốt có thể phát sinh khí dioxin gây nguy hại đến sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, do túi nylon được sử dụng phân tán rộng trong cộng đồng nên việc thu gom, xử lý, tái chế trở nên rất khó khăn và tốn kém.

Nói về các giải pháp khắc phục, Tiến sĩ Khoa cho rằng, cần phải quản lý chặt việc sản xuất túi nylon, tuyên truyền người dân sử dụng túi vải, túi giấy, túi tái chế, nghiên cứu chế tạo túi nylon tự rã, phân hủy sinh học.

Giải pháp thay thế túi nylon

Thời gian gần đây, nhiều cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đã nỗ lực nghiên cứu và chế tạo những sản phẩm ít gây tác hại cho môi trường. Đây là một trong những dòng sản phẩm đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam dùng để thay thế túi nylon hiện hành. Sản phẩm này còn gọi là túi nylon tự hủy do Công ty TNHH Phúc Lê Gia và Công ty cổ phần Nhựa - Xây dựng Đồng Nai hợp tác sản xuất.

Theo công bố của đơn vị sản xuất, túi nylon tự hủy này có thể tự tan rã trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm. Trong khi đó độ chắc chắn của sản phẩm không hề thua túi nylon thông thường. Thành phần chính của các loại túi nylon tự hủy này chính là hỗn hợp vật liệu nylon với vật liệu tự hủy. Với cách làm này, giá thành sản phẩm ở mức ngang bằng với loại nylon hiện hành nhưng cái được lớn hơn là sự thân thiện với môi trường của dòng sản phẩm này.

Ông Lê Lộc, Giám đốc Công ty TNHH Phúc Lê Gia cho biết, hiện tại ông đang sử dụng những hóa chất thân thiện với môi trường để sản xuất túi nylon tự hủy. Mong muốn lớn nhất của ông là ngày càng có nhiều nhà sản xuất túi nylon tự hủy để kích thích ngành này phát triển và làm cho người tiêu dùng quen với loại vật dụng thân thiện với môi trường này.

Hiện tại, Liên doanh Phúc Lê Gia và Nhựa - Xây dựng Đồng Nai đang được các siêu thị trong nước đặt sản xuất loại túi nylon này với số lượng rất lớn. Nhiều đơn vị, doanh nghiệp trong nước, nhờ ý thức rõ tác hại của túi nylon thông thường, cũng đã đặt hàng liên doanh này sản xuất túi nylon tự hủy cho riêng đơn vị mình.

Để thiết thực bảo vệ môi trường chung, cùng với việc tìm giải pháp sản xuất đại trà túi nylon tự hủy với giá thành thấp nhằm thay thế túi nylon hiện hành của các doanh nghiệp; người tiêu dùng cũng cần được và tự nâng cao ý thức trong việc giữ gìn môi trường, bằng những hành động cụ thể như nói "không" với việc sử dụng túi nylon thông thường, không vứt thải bừa bãi túi nylon ra xung quanh...

Nguồn: Yeumoitruong
 
Nguyễn Đăng Duy Nhất
Chủ tịch CMO Council Worldwide tại Việt Nam
Giám Đốc Điều Hành - Global Elite Consulting Corporation